Riềng có tên là Phong khương, Cao lương khương, Tiểu lương khương. Cái tên Cao lương khương có nghĩa là Gừng (Khương) mọc ở đất Cao Lương mà thành tên. Người ta kinh doanh Riềng qua các nước ở phía Đông và đến tận Bắc Châu Âu từ thế kỷ thứ 12. Cũng có người cho rằng, tên của nó xuất xứ từ tiếng Ả Rập sau đó được đổi tên thành Riềng, có nghĩa là Gừng cay nhẹ và được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Thành phần hóa học của Riềng có khoảng 1% tinh dầu, có mùi thơm long não, chủ yếu có chất xineola và metyl xinnamat. Ở dạng tươi sống, Riềng có mùi hương gần giống như Gừng, nhưng không cay nồng như Gừng.
Riềng là vị thuốc phổ biến thường dùng trong dân gian, sau khi đã loại bỏ phần rễ, lá, thân của cây thì được rửa sạch, cắt lát phơi khô. Có nơi, người ta dùng rễ phơi khô làm thuốc theo cách đào rễ, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con rồi cắt thành từng đoạn 2 – 3cm đem phơi khô. Riềng là nguồn cung cấp dồi dào các chất natri, sắt, chất xơ, vitamin A, vitamin C và flavanoid…
Riềng chứa các hoạt chất mang đặc tính kháng viêm nên rất có ích trong việc điều trị viêm khớp, thấp khớp, phong thấp, đau cơ bắp và giúp vết thương mau lành ít để lại sẹo. Bên cạnh đó, Riềng còn có khả năng điều trị chứng khó tiêu, giúp làm giảm khó chịu gây ra do viêm loét dạ dày. Riềng còn chứa nhiều chất chống oxy hóa giúp giảm thiểu các tác hại gây ra bởi các gốc tự do và những độc tố khác trong cơ thể. Do đó, Riềng góp phần phòng ngừa và điều trị các căn bệnh về da như ghẻ ngứa, lang ben, lở loét và sưng viêm. Hỗn hợp Riềng và nước lá chanh được dân ta dùng như thuốc bổ.
Ngoài ra, Riềng có tác dụng tăng cảm giác ngon miệng, điều trị ho gà, đầy hơi, rối loạn tiêu hóa, mật, ruột co thắt và đau thắt ngực, giúp long đờm, giảm đau cổ họng, trị tiêu chảy, hạ cholesterol và triglyceride trong máu.
Ngoài giá trị như một thứ gia vị trong nhiều món ăn ngon, Riềng còn có công dụng chữa trị nhiều chứng bệnh trong các bài thuốc dưới đây.
Trị đau bụng tiêu chảy:
- Riềng tươi rửa sạch, thái lát 20g, lá lốt 20g. Cho hai thứ này vào ấm chuyên, hãm với nước đun sôi. Sau 20 phút rót nước thuốc ra uống dần.
- Riềng tươi 20g, búp ổi 20g, vỏ quả chuối xanh (sao qua) 30g. Cho các vị này vào ấm, đổ vào 2 bát nước, nấu sôi 10 phút, chắt nước ra uống dần. Công dụng: ôn ấm tì vị, cầm tiêu chảy.
- Riềng tươi 20g, lá nhót (sao vàng hạ thổ) 20g, lá mã đề 20g. Sắc lấy nước uống, uống 2 – 3 lần trong ngày.
- Riềng tươi 20g, bạch truật (sao vàng hạ thổ) 16g, lệ chi 20g, quế tốt 8g. Đem các vị thuốc này sắc lấy nước, uống 2 – 3 lần trong ngày.
Trị tì thận dương hư, phù mặt và tứ chi:
Riềng khô 20g, thảo quả 12g, bạch truật 16g, bào khương 12g, đinh lăng 20g, lá tre 16g, hương nhu 16g. Tất cả các vị này cho vào ấm, sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.
Trị viêm đại tràng thể hàn thấp:
Bệnh nhân có biểu hiện đi phân sống, rối loạn tiêu hóa, bụng đau âm ỉ, ăn uống kém, chân tay yếu mềm – dùng bài thuốc sau:
Riềng khô 16g, bạch truật 16g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, sơn thù 12g, phòng sâm 16g, bạch linh 12g, cam thảo 12g, táo tầu 4 quả, trần bì 10g, sinh khương 6g, thảo quả 6g, ngũ gia bì 12g, đinh lăng 16g. Ngày dùng 1 thang, sắc thuốc 3 lần lấy nước uống 3 lần trong ngày. Công dụng: bổ tì dương, chống viêm trừ thấp, tăng cường chức năng vận hóa của tì thổ.
Lý Châu Quý -theo ĐaiKyNguyen