Theo các nhà khảo cứu
thì thay vì dùng ba bữa ăn đầy đủ mỗi ngày, một lịch trình ăn uống với những buổi
nhịn ăn định kỳ (intermittent fasting) có thễ giúp chống lại không những bệnh
mập phì mà còn cả nhiều bệnh tật có liên quan tới cuộc sống hiện đại như bệnh
tiểu đường, bệnh tim, bệnh ung thư và bệnh Alzheimer
Chỉ
dẫn về việc chống lại bệnh mập phì ( obesity) thông thường chú trọng vào việc
tiêu thụ ít calori và tập thể dục nhiều hơn. Các lợi ích cũa những thực phẩm như
rau, các loại hạt, chất sơ và cá cũng như giá trị của việc giảm bớt hay loại bỏ các bữa ăn
vặt ( snacks) cũng thường được đề cao.
Tuy
nhiên, ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy là có những khía cạnh then chốt khác
cũa chế độ ăn uống—như khi nào nên ăn và ăn ra sao—cũng có thể giữ một vai trò
chính yếu đối với sừc khỏe. Thật vậy mô hình ăn uống thông thường nhất trong
các xã hội văn minh ,gồm ba bữa ăn mỗi ngày cộng thêm các bữa ăn vặt (snacks),
được coi là dị thuờng(abnormal) theo quan điểm về sự tiến hoá của con người (human
evolution). Điều này đã được một nhóm các nhà khào cứu quốc tế để cập đến trên
tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences đăng trên mạng ngày 17 tháng 11 vừa
qua.
Trong
bài viết của họ, các nhà khào cứu này cho biết là ngày càng nhiều nghiên cứu
cho thấy là nhịn ăn định kỳ (intermittent fasting) có thể đem lại nhiều lợi ích
Tiến
sĩ Satcidananda Panda –giáo sư tại Salt Institute for Biological Studies ở San
Diego (Alifornia) và là đồng tác giả bài báo [9 Meal Schedules: When to Eat to Lose Weight]--cho biết “ Nhin ăn
không thôi có hiệu quả mạnh hơn thuốc trong việc phòng chống và đảo ngược (
reverse) một số bệnh tật”
Bài
viết ghi nhận là xưa kia con người sinh sống bằng săn bắn và bới tìm các rễ củ
thông thuờng chỉ ăn một cách gián đoạn. ĐIều này gợi ý là khả năng hoạt động cao độ cả
về thể lực lẫn tinh thần trong những thởi kỳ kéo dài không thực phẩm có thể đã đặcbiệt
quan trọng đối với sự tiến hóa của con người và cơ thể con người có thể đã thìch
ứng với việc hoàn thành công viêc một cách tốt đẹp nhất khi nhịn ăn định kỳ
(intermittent fasting)
Theo
các các nhà khảo cứu thì nhịn ăn định kỳ
có thễ là chỉ ăn 500calori hay ít hơn
hoặc hai ngày một tuần hoặc cách một ngày một lần, hay là không dùng bữa
ăn sáng và bữa ăn trưa nhiều ngày trong một tuần
Các
khảo cứu trước đây trên động vật gợi ý là nhịn ăn định kỳ có thể ngăn chặn và
thậm chí đảo nghịch những bệnh như ung thư, tiểu đường, bệnh tim và các rối loạn
suy thoái thần kinh. Các nghiên cứu trên động vật gợi ý là nhịn ăn định kỳ có các lợi ích trên vì giúp cơ thể đáp ứng
tốt hơn đối với stress làm cho stress không gây được tổn thương cho nó. Chẳng hạn
như nhin ăn có thể làm các khối u chết đói, giảm viêm hay cải thiện việc loại bỏ
các phân tử và những thành phẩn khác của các tế bào đã bị tổn thương..Giáo sư Panda nói “Nhịn ăn định kỳ
giúp cơ thễ trẻ lại và sửa chữa, do đó tăng cường sức khỏe tổng thể”.
Thêm
vào đó cơ thể có thể đáp ứng tốt hơn đối với những bữa ăn dùng vào những lúc
nào đó trong ngày thay vì vào những lúc khác do nhịp điệu ngày- đêm (circadian
rhythms). Vào những năm trước khi có ánh sánh nhân tạo con người lệ thuộc vào
các mô hình thiên nhiên ngày và đêm, với ăn vào ban ngàyvà nhịn ăn vào ban đêm. Điều này có nghĩa là ăn vào
những lúc xàc định trong ngày có thễ tốt hơn cho sự chuyền hóa( metabolism) trong cơ thễ---chẵng hạn như vào năm 2013 hai
nghiên cứu trên con người gợi ý là dùng các bữa ăn sớm hơn trong ngày cải thiện
sự giảm cân cho những người quá mập và mập phì(obese).
Giáo
sư Panda thừa nhận nhịn ăn định kỳ thay
vỉ ăn đều mỗi ngày ba bữa có thể là một thự thách lớn . Theo các nhà khảo cứu thì khuyến cáo nên ăn bữa
sáng để trợ giúp việc kiểm soát cân nặng có thể là không đúng theo những bẳng
chứng mới đây
Theo
giáo sư Panda thì cần phải nghiên cứu thêm đễ tìm hiểu về những lợi và hại cũa các loại nhịn ăn định kỳ khác
nhau đối với những quần thể khác biệt .
Ông nói “ Sự hữu hiệu về cả hai mặt phòng chống và đảo nghịch các bệnh tật,
cũng như sự tương tác với các thuốc men chuẫn dành cho các bệnh chuyển hóa mãn
tính cần phải đuợc thử nghiệm trên những nhóm tình nguyên viên thích hợp”