Kính gửi đến những ai có lòng với chữ nghĩa.
Ấn Quang Đại sư, thuộc phái Tịnh Độ Tông của Trung Quốc, thế kỷ XIX, đã từng có phát biểu, đề cao “chữ nghĩa:”
“Chữ nghĩa là của cải quý báu nhất trong thế gian, có thể khiến kẻ
phàm thành thánh, biến kẻ ngu thành trí, kẻ nghèo hèn thành phú quý, kẻ
tật bệnh trở thành khỏe mạnh. Đạo mạch thánh hiền được lưu truyền thiên
cổ; kinh doanh nuôi sống mình và gia đình, để của cải lại cho con cháu,
không việc gì chẳng nhờ vào sức lực chữ nghĩa. Nếu trên đời không có chữ
nghĩa, hết thảy sự lý sẽ đều chẳng thành lập được, con người cũng chẳng
khác gì cầm thú!”
Vậy thì muốn sống cho ra con người cần phải biết quý chữ nghĩa. Người
xưa, không phải chỉ biết quý chữ nghĩa theo nghĩa bóng, mà còn trân quý
chữ nghĩa đã viết ra trên giấy, in thành sách. Thời ông Nội tôi, khoảng
đầu thế kỷ 20 thôi, một tờ giấy có chữ, một trang sách rách, nhất thiết
không vứt bỏ, mà phải đem đốt hay tốt hơn, bỏ vào miệng, nhai mà nuốt!
Thời nay, sách, chữ đem gói xôi, lót nền nhà hay dùng làm giấy vệ sinh.
Chữ nghĩa cũng là một nhu cầu thiết yếu của con người, cứ nhớ đến những
ngày trong nhà tù, một mảnh báo gói mắm ruốc theo những chuyến thăm
nuôi, từ ngoài gửi vào, đem rửa sạch, thay phiên nhau mà đọc.
Biết quý chữ nghĩa thì phải trân trọng với chữ nghĩa. Một nhà văn tự
trọng không có cái tâm bừa bãi với chữ nghĩa mà phải cân nhắc mỗi khi hạ
bút, chữ phải đúng nghĩa, đúng nơi, đúng thời. Trong một bài trước, tôi
đã có nói đến trường hợp… hay văng tục trong chữ nghĩa của nhà văn Bùi
Bảo Trúc, nhưng ông lại là người cân nhắc, chịu tra cứu, dùng đúng chữ,
đúng nghĩa. Người như vậy đương nhiên là người luôn luôn khó chịu, bực
mình khi thấy ai dùng chữ bừa bãi, chữ sai nghĩa, không đúng nơi.
Một tác giả, ông Nguyễn Ngọc Hoa, trong một bài viết khi Bùi Bảo Trúc
qua đời, đã nói rằng ông chính là người bị sửa lưng vì chữ nghĩa, và
ông đã nhắc lại một câu nói quen thuộc của Bùi Bảo Trúc là: “Cậu thấy
không, chúng nó dốt không thể tả!”
Kinh Tế Gia Nguyễn Xuân Nghĩa, một người bạn thân của Bùi Bảo trúc
cũng đã công nhận: “Ông khó tính chừng nào với tình yêu và với người
tình thì lại khó tính gấp bội với văn chương chữ nghĩa.”
Ký giả Đinh Quang Anh Thái trong một bài viết tưởng niệm cũng đã nhận
xét về Bùi Bảo Trúc: “BBT còn căn dặn tôi khi đặt bút viết điều gì nếu
không hiểu cặn kẽ thì phải tra cứu vì chữ nghĩa không phải trò chơi đùa.
Lời dặn thể hiện cá tính của anh khi ngồi vào bàn viết. Bài anh viết,
từng câu, từng chữ, là sự chọn lựa, cân nhắc, ngay cả những từ ngữ dung
tục, sỗ sàng anh mắng những người anh cho là bất xứng.”
Người ta biết đời viết văn của Bùi Bảo Trúc có sự hỗ trợ không phải một, mà là bốn cuốn từ điển trên bàn viết của ông.
Ngay những ca sĩ hát sai lời ca của tác giả, Bùi Bảo Trúc cũng không
chịu được và đã kiên nhẫn giải thích và phê phán không tiếc lời.
Bây giờ chữ nghĩa trong thiên hạ càng ngày càng vô… nghĩa và rối bời,
không còn ra cái thể thống gì nữa! Trong nước chữ nghĩa được “sáng tạo”
một cách bừa bãi, nhiều khi trở thành một thứ ngôn ngữ xa vời, lai
căng, khó hiểu. Ở hải ngoại, người viết không khỏi bị ảnh hưởng, một
phần thiếu cân nhắc, dễ dãi với mình. Nếu chúng ta cứ viết đại, viết ẩu
thì liệu rồi, ngày mai đây, con cháu chúng ta, lớn lên sẽ dùng, viết chữ
Việt như thế nào?
Chưa nói đến những chữ thông thường bị dùng sai, ghép từ Hán Việt một
cách ngô nghê kệch cỡm, trong khi ngôn ngữ của chúng ta, có nhiều phần
trăm là Hán Việt, nếu không thấu rõ, tra cứu sẽ rất dễ bị nhầm lẫn. Một
nhà văn tự trọng không bao giờ chủ quan, tin cậy vào sự hiểu biết của
mình, vì sự hiểu biết nào mà không bị giới hạn!
Không phải một nhà văn giỏi là một nhà văn không bao giờ nhờ cậy đến
những cuốn từ điển, nói khác đi, là nhờ đến kiến thức của những người
khác. Không biết thì hỏi những người biết hơn mình. Có ngạo mạn như Cao
Bá Quát, tự đắc là tài giỏi nhất thiên hạ, cho rằng mình giữ hết hai bồ
chữ, thì thế gian cũng còn lại hai bồ chữ khác mà mình chưa biết.
Chữ nghĩa có nhiều cái bẫy rất tinh vi, bởi vậy mới có người lầm “huy
hoắc” với “huy hoàng,” hay “hồng nhan đa truân” với “hồng nhan đa
đoan!” Một mình biết chẳng sao, nhưng làm văn hóa viết lên để có người
nhầm lẫn hay tin theo là có tội với… chữ nghĩa và hậu thế!
Chính kẻ viết bài này, đôi khi cũng lấy làm khó chịu, phải thốt nên
lời hay viết thành bài, vì không thể chấp nhận được lối dùng chữ nói và
viết của trong nước, thì bị một người làm báo trẻ của thế hệ hôm nay lên
lớp: “chữ nghĩa là sáng tạo, phải chấp nhận, sao cứ ca ra cẳng rẳng
hoài vậy!”
“Tiếng Việt còn, nước Việt còn,” nhưng không phải là thứ tiếng Việt
tối mù lai căng như hiện nay. Hơn 40 năm trở lại quê nhà, nhiều người
nghe tiếng Mẹ mà không hiểu. Tình trạng này, nếu tiếp tục vài ba chục
năm nữa, ngôn ngữ Việt Nam sẽ ra sao?
Chúng ta đã bỏ nước chạy lấy người ra đây, bây giờ lại đang bị làn
sóng đỏ văn hóa, ngôn ngữ bén theo gót. Nói rõ là “bén gót” cho đến
Bolsa. Mới hôm qua, mới bước vào một ngân hàng ở góc đường Westminster
và Brookhurst, thành phố Westminster, kẻ hèn ngoại bát tuần này được một
cô nhân viên trẻ đẹp, vồn vã hỏi rằng: “Mình cần gì?”
Như vậy điều quan trọng khẩn thiết là hải ngoại chúng ta đừng du nhập
thứ ngôn ngữ trong nước ra đây một cách tùy tiện vô ý thức, bằng cách
với báo chí thì copy và paste nguyên văn một bài báo của trong nước, với
truyền thanh, truyền hình thì dùng nguyên bản tin viết sẵn của các nhà
báo quốc nội. Ngoài ra những chương trình ca nhạc, những show giải trí
được “cho không” từ trong nước, hay đính kèm những món quà “khuyến mãi”
theo tinh thần của nghị quyết 36, rõ ràng là một mối di hại lớn cho văn
hóa Việt Nam tại hải ngoại.
Đã thua súng đạn, không có lẽ giờ đây, chúng ta lại thờ ơ để thua văn hóa:
“Nhìn lại xưa, có tội với tiền bối,
Nghĩ mai sau mang lỗi với hậu sinh!”
Huy Phương/nguoiphuongnam