VÀI MẨU CHUYỆN VĂN CHƯƠNG …
Học trò Bình Định ra thi
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành
Tôi
không biết đã có bao nhiêu học trò Bình Ðịnh hỏng thi vì cô gái Huế;
ngành thống kê của nước ta vốn dĩ quá sơ đẳng, nếu không đã tiết lộ
những con số to lớn làm tròn xoe con mắt của đám sĩ tử Bình Ðịnh, một
đám thư sinh ham học nhưng cũng ham gái đẹp vô cùng. Ông Nội tôi là một
sĩ tử Bình Ðịnh tiêu biểu nầy.
Ông
nội tôi từ quê hương Bình Ðịnh ra Huế thi Cử Nhân Hán Học đôi lần,
nhưng đều hỏng cả chỉ vì một người đẹp. Người đẹp xứ Thần Kinh Huế có
làn da trắng hồng mịn màng và đôi mắt huyền mộng mơ đắm đuối.
Da trắng mịn hốt hồn thơ chữ nghĩa
Mắt đen huyền chôn mộng ước công danh
Mắt đen huyền chôn mộng ước công danh
Ðó
là hai câu đối ông Nội tôi sáng tác sau hai lần hỏng thi và ông ngâm
nga giải bày tâm sự trong những lúc trà dư tửu hậu. Thời thơ ấu tôi đã
nghe không biết bao nhiêu lần và khi lên mười tuổi tôi đã thuộc lòng hai
câu đối trên, nhưng lúc bấy giờ vẫn chưa hiểu được cái đại nạn “hồng
nhan hoạ thuỷ”. Bà nội bảo rằng: Ông Nội hận cô gái Huế nầy lắm, sắc đẹp
của cô đã làm ông Nội tôi ngây ngất mê hồn, không còn nhớ gì đến học
hành thi cử, cô đã phá huỷ công danh sự nghiệp đời ông. Bây giờ đọc lại
suy gẫm tìm tòi, tôi đâm ra nghi ngờ lời bàn có chút dèm pha ganh tỵ của
bà tôi, tôi không thấy môt chút gì uất hận toát ra từ hai câu đối,
xuyên qua đó tôi chỉ tìm thấy sự mãn nguyện thưởng thức nhan sắc giai
nhân với cái kết quả tất nhiên sau đó của cuộc đời.
Ông
nội tôi được tiếng là văn hay chữ tốt, học tài thi phận. Gia đình họ
Bùi có một thời năm thế hệ sống chung với nhau an ổn hoà thuận, làm ăn
chung như một đại đơn vị kinh tế gia đình. Theo lý thuyết kinh tế ngày
nay, cách thức sinh hoạt nầy gây nên sự trì trệ chậm tiến, nhưng thời
bấy giờ “ngũ đại đồng đường”, năm thế hệ cùng sinh sống chung một nhà,
được vua ban thưởng tặng danh hiệu sắc phong. Một tấm bình phong chạm
trổ hai con rồng lượn làm khung cho một bài thơ của vua phong tặng, được
khảm cẩn xà cừ trắng lóng lánh, tôi chỉ còn nhớ câu cuối cùng: Bùi thị
danh truyền Nại hải thanh (Dòng họ Bùi vang danh biển xanh Thị Nại.
Trước đây thành phố Quy nhơn được gọi là Thị Nại).
Thú
thật, tôi không thấy có gì đáng kiêu hãnh cho cái danh hiệu “ngũ đại
đồng đường” vua ban, ngoại trừ một câu chuyện hằn sâu đậm trong trí óc
non nớt của tôi. Chú tôi trong một chuyến đi xa về, vì nhớ cô vợ trẻ đi
thẳng về thăm vợ, trước khi đến chào hỏi ông nội tôi. Thế là ngũ đại
đồng đường tập họp đông đủ chứng kiến cảnh xử tội chú tôi. Trước hơn năm
chục người vòng tay kính cẩn, ông nội tôi tóc bạc phơ tay cầm roi,
miệng giảng hiếu nghi lễ nghĩa, thỉnh thoảng phết con roi vào mông chú
tôi trong y phục tề chỉnh khăn đóng áo dài đang nằm úp mặt sóng sượt,
người co rúm lại đầy ân hận bi thương cho cái lỗi tầy trời của mình. Lúc
bấy giờ tôi nghĩ chỉ những bọn trẻ nhóc tì như chúng tôi, đùa giỡn
nghịch ngợm như quỷ mới bị nằm dài chịu những lằn roi trừng phạt, còn
người lớn khăn đóng áo dài như chú tôi mà lại ngoan ngoãn nằm dài để ông
nội tôi vừa đánh vừa dạy bảo, một hình ảnh phi lý ngộ nghĩnh của ngũ
đại đồng đường.
Tuy
nhiên “ngũ đại đồng đường” cũng có điểm lợi. Các cô tôi vừa mới 14, 15
hoặc nhiều lắm 16 tuổi, các đào nhí nầy đã có người mối mai dạm hỏi vội
vã xuất giá vu quy. Thời bấy giờ người ta cho rằng “phụ nhân nan hoá”,
đàn bà rất khó dạy, và những cô tôi được sản xuất đào tạo trong cái lò
“ngũ đại đồng đường”, nhất định sẽ là những phụ nữ tốt dễ dạy, suốt đời
chỉ nghĩ đến chồng con. Cô ba của tôi xuất giá mới 14 tuổi, cô vợ nhí
nầy quả đã làm cho nhà chồng nể phục cái truyền thống công dung ngôn
hạnh của “ngũ đại đồng đường” nên tiếng đồn lan xa. Các cô kế tiếp mới
vừa trổ mã, nhan sắc chưa kịp lên hương đã hấp tấp lên võng hoa về nhà
chồng. Có cô về nhà chồng chưa được dạy dỗ bổn phận làm vợ, đêm động
phòng nhất định không để cho chồng ngủ chung.
Ông
nội tôi vô cùng hể hả với cái nhịp độ xuất giá nhanh vun vút của tám cô
con gái cưng gia đình. Có kẻ đến chậm và quả thật ông nội tôi ân hận
không còn cô con gái thứ chín để về làm dâu nhà họ Ðặng, dòng họ hay chữ
có huyết thống trào lộng độc đáo nầy.
Cụ
tổ Ðặng Ðức Siêu người làng Phú Cang tỉnh Bình Ðịnh, làm quan đến chức
Lễ Bộ Thượng thư đời vua Gia Long, kiêm chức Phụ Đạo Ðông Cung, thầy dạy
học của vua Minh Mạng, nhưng tâm hồn trào lộng phóng khoáng. Ông Bộ
Trưởng Bộ Lễ, một bộ dùng lễ nghĩa để giáo dục dân chúng mà lại đi làm
thơ vịnh cái “Ngọc Hành” để đáp lại bài thơ “Cái Giếng” tả cái vật quý
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, một đề tài nhảm nhí như vậy có thể đưa đến
nhiều thị phi miệng thế rắc rối lắm đa!
Ngọc Hành :
Cũng không phải Phật cũng không Tiên
Vui sướng một mình ở cõi riêng
Ngoài xũ áo xiêm năm bảy lớp
Trong màn hầu hạ một hai viên
Chính chuyên tấc dạ thường ngay thẳng
Khuya sớm một mình phải gắng siêng
Cửa đỏ ra vào đà phỉ chí
Ngàn năm cốt cách để lưu truyền.
(Ðặng Ðức Siêu)
Vui sướng một mình ở cõi riêng
Ngoài xũ áo xiêm năm bảy lớp
Trong màn hầu hạ một hai viên
Chính chuyên tấc dạ thường ngay thẳng
Khuya sớm một mình phải gắng siêng
Cửa đỏ ra vào đà phỉ chí
Ngàn năm cốt cách để lưu truyền.
(Ðặng Ðức Siêu)
Cụ
bà Hồ Xuân Hương nổi tiếng là táo bạo phóng túng nổi loạn trong tình
dục, vậy mà khi muốn tả cái vật quý trinh nguyên của mình, cũng đã phải
dùng thể ví, dùng cái nầy để ám chỉ cái kia, xem thế ta thấy cụ thượng
thư gốc người Bình Ðịnh nghịch ngợm hơn nhiều.
Cái Giếng
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tốt thảnh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai đã biết
Ðố ai dám thả nạ rồng rồng.
(Hồ Xuân Hương)
Giếng tốt thảnh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai đã biết
Ðố ai dám thả nạ rồng rồng.
(Hồ Xuân Hương)
Một
người rể của ông nội tôi, ông Lê Bính bút hiệu Khiêm Ðức, nguyên quận
trưởng quận Tuy Phước tỉnh Bình Định, đã họa bài thơ “Ngọc Hành”:
Ngọc Hành
Không màng thế sự sống như tiên
Một nếp thanh nhàn một cõi riêng
Rộng rãi an cư nhà một cột
Sẵn sàng chiến đấu đạn vài viên
Tấm lòng ngay thẳng vì danh lợi
Công việc cứng mềm hết dạ riêng
Ngõ tía lân la ngày mấy bận
Hằng lo giống tốt để di truyền.
(Khiêm Ðức Lê Bính)
Một nếp thanh nhàn một cõi riêng
Rộng rãi an cư nhà một cột
Sẵn sàng chiến đấu đạn vài viên
Tấm lòng ngay thẳng vì danh lợi
Công việc cứng mềm hết dạ riêng
Ngõ tía lân la ngày mấy bận
Hằng lo giống tốt để di truyền.
(Khiêm Ðức Lê Bính)
Cụ
Bộ trưởng Bộ Lễ Ðặng Ðức Siêu còn táo bạo hơn nữa, dùng vần thơ đường
tao nhã thời của cụ chỉ sử dụng trong thi cử hoặc xướng hoạ giữa các bậc
tao nhân mặc khách, để tả “đàn bà đái” trong thời đại cầu tiêu
(restroom) chưa được xây cất thịnh hành, và nhờ vậy may mắn thay chúng
ta được biết một cách sinh sống người xưa:
Ðàn Bà Đái
Ngó trước nhìn sau vắng khách qua
Hai tay rón rén trịch quần ra
Sóng xao bãi hến sương dầm ấm
Suối chảy gành ngao nước bủa hoa
Kiến tưởng mưa dông tha trứng chạy
Cóc ngờ lụt lội cõng con ra
Bởi chưng méo mó nên che đậy
Xinh xấu cũng là của mẹ cha.
Hai tay rón rén trịch quần ra
Sóng xao bãi hến sương dầm ấm
Suối chảy gành ngao nước bủa hoa
Kiến tưởng mưa dông tha trứng chạy
Cóc ngờ lụt lội cõng con ra
Bởi chưng méo mó nên che đậy
Xinh xấu cũng là của mẹ cha.
(Ðặng Ðức Siêu)
Bài họa của dượng tôi, chồng cô thứ sáu cũng lắm chi tiết trần truồng hiện thực:
Ðàn Bà Đái
Ngọn cỏ thường ngày đái chẳng qua (1)
Bởi ngồi che hẻ trật khu ra
Hai tay bám chặt quần tung gió
Ðôi mắt xem chừng nước trỗ hoa
Ngõ hẻm nhà nghèo xoi cát sụn
Chân tường kẻ có tróc vôi ra
Sánh cùng nam giới không thua thiệt
Lồi lõm cũng đừng trách mẹ cha.
Bởi ngồi che hẻ trật khu ra
Hai tay bám chặt quần tung gió
Ðôi mắt xem chừng nước trỗ hoa
Ngõ hẻm nhà nghèo xoi cát sụn
Chân tường kẻ có tróc vôi ra
Sánh cùng nam giới không thua thiệt
Lồi lõm cũng đừng trách mẹ cha.
(Khiêm Ðức Lê Bính)
Té
ra các cụ ngày xưa khăn đóng áo dài y phục trang nghiêm tề chỉnh, nhưng
trong đầu các cụ vẫn toé ra những ý tưởng nghịch ngợm táo bạo làm nhăn
mặt các bậc mô phạm ở cửa Khổng sân Trình.
Người
suôi gia ông nội tôi hãnh diện nhất là ông Ðào Phan Duân bút hiệu Biểu
Xuyên. Người con trai thứ của ông cưới cô con gái thứ bảy của ông nội
tôi. Ông Ðào Phan Duân người làng Biểu Chánh tỉnh Bình Ðịnh, đậu cử nhân
hán học năm 1894, đậu phó bảng năm 1895 lúc ông 31 tuổi. Ông làm quan
đến chức Tuần Vũ Khánh Hoà, tức là tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà. Tính tình
điềm đạm, bình dị ông về hưu sớm và đi du lịch khắp nơi trong nước. Có
lẽ ông là nhà thơ Bình Định đầu tiên viếng Ðà Lạt và tặng thành phố nầy
một món quà thi phẩm:
Viếng Ðà Lạt Cảm Tác
Nghe nói Lâm Viên cảnh lạ đời
Quên già lão cũng gắng sang chơi
Lâu đài chen chúc đường thêu dệt
Khe núi quanh co đất vẽ vời
Cao thấp rừng thông đèn rọi sáng
Êm đềm tiết hạ gió đưa hơi
Bồng lai tiên cảnh đâu đây hẳn
Hẳn thấy phong quang biệt một trời!
Quên già lão cũng gắng sang chơi
Lâu đài chen chúc đường thêu dệt
Khe núi quanh co đất vẽ vời
Cao thấp rừng thông đèn rọi sáng
Êm đềm tiết hạ gió đưa hơi
Bồng lai tiên cảnh đâu đây hẳn
Hẳn thấy phong quang biệt một trời!
(Biểu Xuyên Ðào Phan Duân)
Một
trong những người rể ưng ý nhất của ông nội tôi là ông Trần Ðình Tân,
chồng của cô thứ tư. Dĩ nhiên ông Trần Ðình Tân rất hay chữ, một điều
kiện ưu tiên trong việc chọn rể của ông tôi, xứng đáng làm chồng của cô
tư, một giai nhân khéo vô cùng. Ông tôi sử dụng từ ngữ hay và khéo một
cách cân nhắc thận trọng. Người nào học hành thật xuất sắc thông minh,
ông mới cho là hay chữ, giai nhân nào tuyệt đẹp mới được gọi là khéo,
trong tám cô tôi, ông chỉ thưởng từ ngữ khéo cho hai người.
Ông
Trần Ðình Tân đậu cử nhân hán học làm quan đến chúc Án Sát, tương đương
như Phó Tỉnh Trưởng kiêm Chánh Án tỉnh Bình Thuận, trong thời gian nầy
ông Ngô Ðình Diệm làm Tuần Vũ, như Tỉnh Trưởng Bình Thuận. Hai ông Trần
Ðình Tân và Ngô Ðình Diệm trở nên bạn chí thân tri kỷ với nhau. Những
năm chiến tranh chống Pháp 1945-1954, ông Trần Ðình Tân bị kẹt lại trong
vùng Bình Định, tình trạng chiến tranh gian khổ, hai mắt kéo màng mây
bị bệnh cataract không thấy đường. Năm 1954, ông Ngô Ðình Diệm về nước
làm Thủ Tướng, ông Trần Ðình Tân được người bạn tri kỷ Ngô Ðình Diệm đài
thọ mọi chi phí chữa trị bệnh mắt tại phòng mạch bác sĩ Cát ở Sài Gòn.
Năm 1956, ông Trần Ðình Tân đắc cử Dân Biểu Quốc Hội và làm việc tại
Quốc Hội ở thành phố Sài Gòn. Cho đến cuối năm 1962, tôi đã cùng người
dượng hay chữ Trần Ðình Tân vào dinh Ðộc Lập hay dinh Gia Long để thăm
viếng tổng thống Ngô Ðình Diệm nhiều lần, có những lần chỉ ở chơi vài
giờ, có những lần ở suốt ngày đêm. Trong thời gian nầy để lại trong tôi
một kỷ niệm đầu đời khó quên, một câu chuyện tình. Dượng Trần Ðình Tân
vóc người đẫy đà mập mạp, đôi mắt tuy được chữa trị nhưng phải mang đôi
kính cận dày mười hai độ, đi đứng chậm chạp cần tôi giúp đỡ dẫn đường.
Tôi
không bao giờ có thể ngờ được gian phòng dành cho một vị tổng thống
quyền uy một nước lại đơn sơ giản dị khô khan thiếu những đồ đạc tiện
nghi văn minh thoải mái, đến như thế. Dầu ở dinh Ðộc Lập hay dinh Gia
Long, gian phòng dành cho vị nguyên thủ quốc gia thật quá nhỏ so sánh
với toàn bộ kiến trúc của hai dinh thự nầy. Tổng thống Ngô Ðình Diệm
thích ngồi trên một chiếc ghế bành da cũ kỹ, cái kiểu ghế bành từ hồi
thật xa xưa có vẻ vững chãi quê kệch, thiếu hẳn tính chất trang trí thẩm
mỹ. Có lần dượng Trần Ðình Tân hỏi ông Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải sao
không thay đổi cho cụ Diệm một cái ghế bành da mới, ông Hải cho biết đã
đề nghị với cụ, nhưng cụ Diệm bảo ghế nầy vẫn còn sử dụng được, mua cái
mới làm gì cho lãng phí công quỹ.
Ðặt
trước ghế bành là chiếc bàn tròn nhỏ, trên bày biện bộ bình trà tách
nước, hộp đựng thuốc lá, cái đựng tàn thuốc và một chồng hồ sơ đang phê
dở. Lùi sau chiếc ghế bành là một bàn chữ nhật rộng, trên để đầy sách
tạp chí, chen lẫn với hồ sơ, văn thư tờ trình được miếng kim loại tròn
đè dằn lên. Trong góc phòng một chiếc giường độc thân làm bằng gỗ lúc
nào cũng trải chiếc chiếu hoa màu sậm, trên đầu giường một chiếc tràng
kỷ con để những vật dụng tuỳ thân như cặp kính lão, những chai thuốc lọ
dầu, bên cạnh cái tráp nhỏ cẩn xà cừ. Trong một góc phòng đối diện, một
chiếc tủ cao, trên nóc tủ một khung ảnh lớn hình chụp ông Ngô Ðình Khả,
thân phụ tổng thống Ngô Ðình Diệm, mặc áo gấm bông, khung ảnh nằm giữa
hai trụ nến bằng thuỷ tinh.
Vào
một ngày xuân, khoảng năm 1957, tổng thống Ngô Ðình Diệm lấy từ trong
chiếc tủ cao nầy, một câu đối do ông Nguyễn Trác, cử nhân hán học, chủ
tịch Hội Khổng Học Việt Nam, vừa mới viết tặng tổng thống Ngô Ðình Diệm:
Ðông thất tây thâu phi tiểu tiểu
Thượng hành hạ hiệu thị thao thao
Thượng hành hạ hiệu thị thao thao
Hai
câu đối có ý nghĩa ví ông Ngô Ðình Diệm cũng giống như Lưu Bị, bỏ Ðông
Ngô về Tây Thục, rút miền Bắc, di cư vào Nam, hoàn thành việc đó không
phải là việc nhỏ. Trên ra lệnh, dưới làm cả một phong trào khí thế sôi
lên. Hai câu đối nầy lời ý vế chữ đối nhau tuyệt hảo toát ra một ý nghĩa
lịch sử hào hùng.
Tôi
chưa bao giờ thấy hai ông bạn già thảo luận việc nước say sưa, bàn tán
quốc sự một cách hăng say nhiệt tình vui vẻ đến thế. Hôm đó, tôi một kẻ
hậu sinh được hân hạnh tham dự dạ tiệc do tổng thống Ngô Ðinh Diệm khoản
đãi ông Trần Ðình Tân người bạn cũ, với ba món cá thu kho ăn với dưa
chua cà pháo, đậu hũ xào thịt, uống với nước trà Huế đậm đặc, thực đơn
quen dùng của hai người khi làm việc ở tỉnh Bình Thuận thời xưa: bữa
tiệc quá đơn giản đạm bạc của vị Nguyên Thủ Quốc Gia đãi bạn hiền.
Trong
thời đại của ông bà tổ tiên chúng ta, việc làm câu đối rất thịnh hành.
Cưới vợ cho con trai, gả chồng cho con gái, thăng quan tiến chức, món
quà quý nhất là một câu đối được khắc cẩn xà cừ trên những tấm hoành
phi, liễn đối, những kỷ niệm hãnh diện để đời. Phủ Cũ cách Thành Phố Quy
Nhơn hơn năm cây số có một dòng họ chuyên làm liễn cẩn xà cừ, nghệ
thuật thủ công thượng hạng, gỗ làm liễn hoành phi là những danh mộc quý
khó tìm.
Lưu
lạc xứ người vào những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi, thời đại mạng
lưới điện toán, mà ngồi mơ ước nhận được đôi liễn cẩn xà cừ khắc câu
dối làm quà tặng mình, ước mơ nầy cũng giống như ước mơ trúng số độc đắc
Liên Bang. Ấy vậy mà tôi được trúng số an ủi đấy!
Mùa
Hè năm 1996 tôi đuợc mời đến thuyết trình về văn hóa Việt Nam và văn
hóa Trung Hoa tại Ðại Học Houston chi nhánh Thành Phố Clear Lake.
Thành
phần sinh viên tham dự đủ mọi sắc tộc, nhưng quá phân nửa là sinh viên
gốc Việt và gốc Trung Hoa. Trong một hội trường trang trí trẻ trung vui
nhộn, khi tôi tiến vào khoảng vài trăm người đang ồn ào nói chuyện, ông
Nguyễn Xuân Diễm có bằng Cử Nhân Giáo Dục tại Hoa Kỳ năm 1969, tác giả
cuốn sách English 4000, nguyên là chuyên viên tại Bộ Giáo Dục Việt Nam
Cộng Hòa, hiện là Cố Vấn Hội Sinh Viên Việt Nam, ông mời tôi đứng trên
bục giảng và giới thiệu tôi với cử toạ. Ông Diễm trình bày những sinh
hoạt văn chương và giáo dục của tôi, cuối cùng ông tặng tôi hai câu đối:
Ðất tổ địa linh sự nghiệp văn chương lẫy lừng danh Huy Lực
Quê người trường tốt công trình giáo dục thơm nức tiếng Tiên Khôi.
Quê người trường tốt công trình giáo dục thơm nức tiếng Tiên Khôi.
Khi
ông Diễm dứt lời, hai câu đối nét chữ bay bướm viết trên giấy dày cuộn
tròn được treo từ trước, từ từ hạ xuống hai bên đối xứng với chính giữa
bục thuyết trình của tôi. Tôi đã đi thuyết trình hàng trăm lần tại các
đại học, nhưng chưa bao giờ được chào đón một cách truyền thống văn
chương lý thú như thế. Ngày hôm đó tôi hứng khởi thao thao tuyệt thú.
Trong phần thảo luận, một sinh viên gốc Tàu Chợ Lớn đứng lên hỏi tôi:
– Trong sinh hoạt văn hoá Trung Hoa, mỗi giai đoạn đời người đều có những ưu tiên phản ảnh qua các câu:
Tam thập nhi lập
Tứ thập nhi bất hoặc
Ngũ thập tri thiên mạng
Lục thập nhi nhĩ thuận
Thất thập nhi tòng tâm sở dục
Tứ thập nhi bất hoặc
Ngũ thập tri thiên mạng
Lục thập nhi nhĩ thuận
Thất thập nhi tòng tâm sở dục
Xin
diễn giả cho biết sinh hoạt văn hoá Việt nam có những câu nói về sinh
hoạt đời người tương ứng như vậy, hay Việt Nam chỉ sử dụng những câu
trên của Trung Hoa?
Sinh
viên gốc Hoa nầy hỏi xỏ xiên, ám chỉ rằng văn hoá Việt Nam chỉ rập
khuôn văn hoá Tàu. Tôi đã gặp trường hợp nầy khi đến thuyết trình tại
đại học Houston Baptist University, một đại học có nhiều sinh viên gốc
Trung Hoa, cách đây nhiều năm. Tôi trả lời:
–
Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, trong bất cứ sinh hoạt nào của con
người cũng đều rút ra những triết lý sống động căn bản. Ðây là những câu
về “đời người” của văn hoá Việt Nam:
Ðời Người Tới
Tuổi hai mươi vừa cười vừa học
Tuổi ba mươi khó nhọc định thân
Tuổi bốn mươi sự nghiệp lớn dần
Tuổi năm mươi truyền đời kinh nghiệm
Tuổi sáu mươi đức tin tụng niệm
Tuổi bảy mươi thoát tục thoát đời
Tuổi tám mươi rừng trúc ẩn nơi
Tuổi chín mươi đợi về tiên cảnh.
(Huy Lực Bùi Tiên Khôi)
Tuổi ba mươi khó nhọc định thân
Tuổi bốn mươi sự nghiệp lớn dần
Tuổi năm mươi truyền đời kinh nghiệm
Tuổi sáu mươi đức tin tụng niệm
Tuổi bảy mươi thoát tục thoát đời
Tuổi tám mươi rừng trúc ẩn nơi
Tuổi chín mươi đợi về tiên cảnh.
(Huy Lực Bùi Tiên Khôi)
Quả
thật tôi đã quá cái tuổi năm mươi từ lâu, nhưng chưa có chút kinh
nghiệm gì để truyền lại, ngoài trừ vài mẫu chuyện về giáo dục và văn
chương.
Dâu bể đời người biến đổi thay
Ðầu xanh thoắt bạc có ai hay
Trăm năm cuộc sống là bao nhỉ
Gởi lại đời sau chuyện kiếp này.
(Huy Lực Bùi Tiên Khôi)
Ðầu xanh thoắt bạc có ai hay
Trăm năm cuộc sống là bao nhỉ
Gởi lại đời sau chuyện kiếp này.
(Huy Lực Bùi Tiên Khôi)
Và từ chuyện cô gái Huế, đến những nhân vật liên hệ đến ông nội tôi, chuyện văn chương kéo dài lan man….
Huy Lực Bùi Tiến Khôi (bài do bạn Mậu Trần giới thiệu)