Người Việt yêu tiếng Việt, là lẽ đương nhiên. Nhưng phụ huynh người Mỹ yêu tiếng Việt mới là điều đặc biệt.
Tuy
dạy ngôn ngữ chính là tiếng Anh, tôi luôn khuyến khích phụ huynh người
Việt và bạn bè thân hữu hãy cố gắng cho con em học tiếng Việt để bảo tồn
văn hóa và ngôn ngữ chúng ta nơi hải ngoại. Tôi chưa bao giờ “dụ" một
người Mỹ nào cho con cái họ đi học Việt Ngữ, vậy mà có duyên may tôi lại
được một người Mỹ nhờ dạy tiếng Việt cho bà và cháu ngoại.
Thường
ngày ngoài thời gian đi dạy và làm việc nhà, tôi lại còn bận thêm
chuyện viết lách, phải chia thời gian thật kỹ để còn tập thể dục chút
đỉnh, cho nên thời gian rảnh rất hiếm hoi.. Một lần anh phó hiệu trưởng
của trung tâm Việt Ngữ cách thành phố tôi ở khoảng ba chục dặm gọi nhờ
tôi “take over” dùm lớp tiếng Việt vì cô giáo chính đã nghỉ dạy. Tôi chỉ
nhận lời dạy tạm một thời gian. Nhưng đến lớp, nhìn mười mấy cái miệng
chim non mỗi ngày ê a tiếng Việt ngọng nghịu chen lẫn tiếng Anh, tôi yêu
các em quá đỗi. Và tôi đành “hy sinh" các ngày thứ Bảy trong tuần để
dạy luôn đến mấy mùa, cho tới khi gia đình dọn đi nơi khác.
Niên
khóa mùa Thu năm đó bà con người Việt đưa con em đến ghi danh khá đông.
Tôi mải mê đứng ngắm cái hàng dài phụ huynh chờ làm thủ tục, trong khi
các em cặp trên vai chạy nhảy vui đùa xung quanh mà lòng bồi hồi nhớ lại
những ngày tuổi thơ. Ngày tựu tường xưa tôi hớn hở trong quần áo mới,
mang cặp đi nghêu ngao trên đường làng, hái hoa đuổi bướm bắt chuồn
chuồn. Những ngôi trường mái ngói rêu phong, có cây đa cổ thụ rợp bóng
mát cạnh đình làng. Nhớ lại để mà quý mà thương các thầy cô, ban chấp
hành, các vị cố vấn, và những thiện nguyện viên đã bỏ bao công sức để
cho trường Việt Ngữ được tồn tại nơi hải ngoại.
Các
lớp học xưa ở quê nhà có cả một hệ thống giáo dục của chính phủ Quốc
Gia ủng hộ chở che. Nhưng những lớp Việt Ngữ nơi quê hương thứ hai này,
ban điều hành và mọi người đã phải “tự biên tự diễn” tự lo liệu tất cả.
Hầu hết giáo viên và nhân sự ở đây đều làm thiện nguyện, chỉ một số ít
nhận chút lương tượng trưng. Học phí thu vào một lần cho cả học kỳ chẳng
được là bao, mà phải chi phí đủ thứ, từ dụng cụ giảng dạy đến thức ăn
vặt cho bọn trẻ trong giờ chơi như bánh kẹo, nước, trái cây, rồi tốn kém
cho các chương trình văn nghệ, lễ Tết này kia, làm cho ban điều hành
đôi khi cũng phải chới với. May mắn là trường tiểu học thành phố cho
mượn mấy phòng học trong những ngày cuối tuần nên khỏi phải trả tiền
thuê địa điểm.
Ngày
đầu tiên đến lớp tôi trao đổi với cô phụ giáo tên Linh về chương trình
giảng dạy mà tôi soạn sẵn. Vì trường không thể cung cấp sách và truyện
Việt Ngữ để dạy, nên tôi tự soạn chương trình, vẽ những hình ảnh minh
hoạ theo các mẫu tự giống như trong sách tiếng Anh để cho các em dễ nhớ.
Tôi cũng mua các loại truyện nhi đồng Anh Ngữ về rồi dùng bút marker
ghi chữ Việt thật lớn bên cạnh những hàng chữ tiếng Anh để đọc cho các
em nghe và tập các em đọc. Chỉ là “ngộ biến tùng quyền”, nhưng về sau
tôi thấy cách này dạy các em cũng rất hiệu quả.
Vì
sách truyện các em học ở trường đều là tiếng Anh, nên dùng loại sách
này dịch ra tiếng Việt đi kèm các em cảm thấy quen thuộc nên rất thích
học và còn dễ nhớ nữa. Nhìn đám trẻ loi nhoi với độ tuổi từ 5 đến 6, có
bé mới hơn 4 tuổi, tôi biết dạy lớp này không hề đơn giản chút nào. Là
lớp vỡ lòng, phần lớn các em không biết nhiều tiếng Việt, chỉ nghe, nói,
và hiểu tiếng Anh, vì ngày thường bọn trẻ đang học Mẫu Giáo hoặc lớp
Một ở trường Mỹ.
Để
các em cảm nhận được bầu không khí quen thuộc như ở trường Mỹ, khi phụ
huynh đưa các em đến tôi và Linh ra tận cửa đón chào từng em và dắt vào
chỗ ngồi. Thầy hiệu trưởng vô lớp, giới thiệu chúng tôi với đám trò nhỏ
rồi đi qua các phòng khác.
Bắt
đầu buổi dạy, tôi nói tiếng Việt, nhưng nhiều em ngồi ngớ ra tỏ vẻ
không hiểu, nên tôi phải dùng cả hai ngôn ngữ Việt Anh để làm quen các
em. Sau đó chúng tôi bày bọn trẻ tự viết tên theo tiếng Việt vào mảnh
giấy nhỏ rồi giúp chúng xếp thành hình tam giác để trước mặt cho các bạn
chung bàn có thể đọc và nhớ tên nhau. Bất chợt tôi nhìn ra cửa sổ và
thấy một phụ nữ Mỹ đứng dán mắt nhìn chăm chú vào lớp học. Tôi đưa tay
vẩy chào bà rồi trở lại làm việc với đám học trò.
Không
ngờ lát sau thì có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở và thấy người đàn bà Mỹ khi
nãy dắt một đứa bé gái xin được nói chuyện với tôi. Tôi tự giới thiệu
tên, bà cũng cho biết tên bà là Kathy và đứa cháu gái tên Daisy rồi bà
nói bằng giọng rất tha thiết:
–
Cô giáo à! Nãy giờ từ ngoài kia tôi đã quan sát và rất thích cách dạy
của cô, nói tiếng Việt bọn nhỏ không hiểu thì cô giải thích thêm bằng
Anh Ngữ và tụi nó đã nghe lời, làm theo những gì cô dạy. Thật tốt quá.
Vậy nên tôi đã mang đứa cháu này của tôi từ một lớp khác ở phòng bên kia
sang đây nhờ cô giúp nó. Tôi chưa kịp trả lời bà đã nói tiếp giọng nài
nỉ:
- Làm ơn đi mà!
Tôi
thấy hơi bất ngờ, hỏi bà làm như vậy có tiện không vì tôi là cô giáo
mới của lớp này nên ngại quá. Bà trấn an tôi, nói không sao vì bà đã
giải thích cho thầy giáo lớp bên kia hiểu rồi, vì đứa cháu của bà thuộc
dạng “đặc biệt" nên bà cần phải chọn cô giáo cho nó.
Nghe
nói học trò “đặc biệt" là tôi đã giật mình kêu khổ thầm. Trong thời
gian đi thực tập và đi dạy tôi đã gặp nhiều em bé thuộc loại đặc biệt và
vất vả không ít, như trường hợp đứa trẻ bị tổn thương chuyển sang bệnh
tự kỷ tên Athan mà tôi đã từng kể trong một bài viết trước đây.
Vì
không muốn làm mất lòng người giáo viên lớp bên cạnh, nơi mà bà đã lấy
đứa cháu ra khỏi lớp, ngại vị đó sẽ tự ái thì không hay, tôi định từ
chối. Nhưng khi nhìn bé Daisy, trái tim tôi bỗng dưng thắt lại. Bé gái
này xinh như một con búp bê, mà sao thần sắc lại vô cùng bạc nhược như
không còn sức sống. Dù có làn da trắng, mặt mũi bé tái xanh, đôi mắt như
vô hồn nhìn tận đâu đâu, bé không đáp lại khi tôi chào bé. Tôi hỏi thêm
vài câu thì được biết Kathy là bà ngoại của bé. Bà Kathy thấy tôi không
phản đối biết tôi nhận lời nên ôm lấy bé vỗ vỗ vào bờ vai nó:
– Daisy, đây là cô giáo của con, hãy ở lại học nhé!
Con bé nhìn trừng trừng vào bà, rồi nhìn qua tôi mà vẫn không đáp lại lời nào.
Bà xoay qua tôi:
-
Cô làm ơn để ý kỹ dùm cháu, dù tinh thần có chút bất ổn, bé rất ngoan
chứ không quậy phá đâu. Trước đây nó là đứa trẻ bình thường, rất thông
minh nhanh nhẹn và hoạt bát. Chỉ là sau khi mẹ mất tinh thần Daisy mới
suy sụp trầm trọng như thế. Bé nghe thì hiểu hết, nhưng không chịu mở
miệng nói chuyện, chúng tôi đã nhờ nhiều bác sĩ, chuyên gia tâm lý chạy
chữa cho bé, nhưng vẫn không ăn thua.
Tôi
thấy thương đứa bé đến xót xa, mới chừng này tuổi mà đã mồ côi mẹ thật
là tội nghiệp. Bà Kathy cám ơn rối rít khi tôi trả lời sẽ nhận Daisy. Bà
chào tôi ra về, nhưng suốt buổi học tôi thấy bà vẫn đứng ngoài cửa sổ
dõi mắt nhìn vào lớp quan sát đứa cháu, làm tôi dù chăm chú dạy mà cũng
có chút hơi...lúng túng, giống như ngày xưa khi dạy thực tập có các giáo
sư đứng sau bức màn theo dõi chấm điểm vậy.
Điều
đặc biệt làm tôi cảm động, là tấm lòng thiết tha mong muốn cháu mình
học được tiếng Việt của bà ngoại Mỹ Trắng này. Mỗi thứ Bảy cuối tuần
thay vì đưa cháu đi dã ngoại, đi chơi xa như phần đông những gia đình
Mỹ, bà chịu khó đưa cháu đến trường Việt Ngữ, và chưa bao giờ bỏ một
ngày nào.
Không
phải chỉ ngày đầu, hầu như mỗi buổi học của Daisy bà Kathy đều đứng
ngoài cửa kính nhìn vào, lúc lớp ra chơi thì bà lảng vảng gần đó quan
sát, khi vô lớp lại thấy bà đứng bên ngoài. Mỗi khi tan lớp học, bà vào
nhận cháu lúc nào cũng hỏi tôi hôm nay Daisy làm những gì, có viết, có
nói được tiếng nào không, có nghe lời cô không. Cảm động vì tấm lòng của
bà chúng tôi gom góp hết bài học, bài tập viết, tập vẽ của các em không
bỏ sót một bài nào, cho Daisy và bọn nhỏ mang về khoe với gia đình.
Đáng
buồn là học mấy tuần rồi mà tình trạng bé Daisy vẫn như ngày đầu đến
lớp chứ chẳng khá hơn chút nào. Tôi và Linh rất thương con bé, luôn luôn
kèm cặp, vỗ về chăm sóc đặc biệt, mua cho bé những món đồ chơi nho nhỏ,
và nói chuyện với bé thường xuyên. Bé nghe và hiểu hết những gì tôi
nói, kêu làm thì làm, bảo viết thì viết, vẽ cũng đẹp, cắt giấy cũng
okay, viết chữ cũng rất đúng. Nhưng bé chỉ đáp lại bằng gật đầu hay lắc
đầu, chứ tuyệt không mở miệng. Lúc nào con bé nhìn cũng lẻ loi, cô đơn
rất tội nghiệp.
Còn
vài tháng nữa thì đến Tết Trung Thu, trường Việt Ngữ tổ chức đêm văn
nghệ Trăng Rằm để nhắc nhở các em về cái Tết Trăng Tròn truyền thống của
trẻ em Việt Nam. Các tiết mục được chuẩn bị dàn dựng kỹ lưỡng, mỗi thầy
cô lớp lớn sẽ tập dợt cho các em lớp mình trình diễn một màn. Các cô
phụ trách dạy những điệu múa cổ truyền Việt Nam rộn ràng bàn tính, gửi
về Việt Nam mua những chiếc gùi tí hon, đặt may trang phục đầy sắc màu
cho các điệu múa của người Dân Tộc.
Lớp
tôi dạy các em còn khá nhỏ nên thầy hiệu trưởng cho tôi toàn quyền
quyết định chọn bất cứ màn trình diễn nào tiện cho các em. Tôi chọn tiết
mục đơn giản nhất, là sẽ mở lên bài hát “Rước Đèn Tháng Tám” của nhạc
sĩ Đức Quỳnh, rồi cho các em xách lồng đèn vừa đi vòng sân khấu vừa hát
theo băng đĩa. Tôi và Linh cắt dán cho mỗi em một chiếc mũ giống vương
miện với đủ màu sắc. Trang phục thì em nào có gì mặc nấy, áo bà ba, áo
dài truyền thống, đồng phục học sinh của trường các em đang theo học, đồ
bình thường...
Bà
Kathy nghe có văn nghệ Tết Trung Thu cho các em thì mừng lắm. Bà thấy
có vài đứa bé mặc áo dài chữ thọ truyền thống Việt Nam thì thích thú nên
nhờ tôi đến tiệm người Việt mua dùm một bộ màu hồng cho Daisy. Những
ngày Chúa Nhật chúng tôi tập dợt cho các bé bà đều đưa Daisy đến và ở
lại xem từ đầu đến cuối. Các em nhỏ rất hào hứng, cùng nhau đi vòng
quanh phòng học và hát theo “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn
đi khắp phố phường...”
Ngày
đầu tập dượt, cả lớp vui vẻ. Khổ nỗi, bé Daisy nhất quyết không tham
gia tập dợt dù tôi và bà ngoại bé hết sức dỗ dành. Tội nghiệp bà Kathy,
cố gắng mọi cách cho bé tham gia mà vẫn không thành công. Dầu vậy bà
không chịu bỏ cuộc, dù đưa bé đến chỉ để bé nhìn các bạn bà vẫn làm.
Đến
giờ giải lao của buổi tập thứ hai, tôi ra ngồi nơi băng ghế ngoài sân
trường canh chừng bọn nhỏ chơi đùa sau khi nhận phần quà ăn vặt và nước
trái cây. Daisy cũng nhận phần bánh của mình và đứng ăn một cách từ tốn
chỗ bồn hoa.
Bỗng bà Kathy bước lại và ngồi xuống cạnh tôi.
– Xin lỗi bà!
Tôi nói, mắt nhìn Daisy.
-
Tôi đã cố gắng để giúp Daisy hoà nhập tham gia tập luyện văn nghệ cùng
với các bạn, nhưng không thành công. Dù tôi từng gặp và giúp thay đổi
được nhiều học sinh có tình trạng “đặc biệt”, nhưng với Daisy thì đành
bó tay rồi!
– Không phải lỗi do cô đâu!
Bà nói giọng thật buồn.
- Bữa giờ tôi chưa có dịp tâm sự chi tiết cùng cô về nguyên nhân đã khiến bé bị như vậy.
– Có phải bé bị bệnh tự kỷ không?
Cuối cùng tôi cũng đã hỏi ra một câu không đáng hỏi mà tôi cố dằn lòng lâu nay.
-
Tôi cũng từng gặp nhiều em bị tình trạng như bé vậy. Chịu khó chăm sóc
kỹ càng, đôi khi sau một thời gian thì bé sẽ khá trở lại.
Bà cười buồn:
– Cũng mong là vậy. Đã hơn sáu tháng rồi, không biết đến bao giờ đây.
–
Tội nghiệp bé quá! Tôi nói. - Tuy vậy, Daisy vẫn còn diễm phúc có bà
ngoại tốt như bà. Tôi thấy bà lo lắng chăm sóc bé đủ điều đâu thua gì mẹ
ruột.
– Thật ra, tôi không phải là bà ngoại ruột của Daisy đâu, ngoại ruột bé là người Việt Nam.
– Ủa? Tôi kêu lên.
- Sao bé không có vẻ gì giống người Việt hết? Vậy bà ngoại ruột bé đâu rồi?
–
Mẹ bé Daisy là trẻ lai, con riêng của chồng tôi. Bà ngoại bé mất trước,
nửa năm sau là mẹ nó mất luôn. Cho nên nếu tôi không giúp thì chẳng còn
ai trên đời này giúp cho bé cả!
– Trời! Sao mà con bé tội nghiệp đến thế! Tôi kêu lên lần nữa và nhìn bà chăm chú.
Thấy
tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, bà Kathy do dự một chút, rồi bắt đầu kể tôi nghe
về thảm họa của gia đình bé Daisy. Giọng bà nghe thật buồn giữa tiếng nô
đùa huyên náo của đám học trò.
Chồng
bà, ông Robert từng là một cựu chiến binh Việt Nam. Bà trẻ hơn ông gần
chục tuổi.. Hai người kết hôn sau khi ông trở về từ Việt Nam, đi học
tiếp tốt nghiệp luật sư và ra đi làm.
Thời
gian chiến đấu bên Việt Nam, Robert còn là chàng trai độc thân. Năm
1974, sau khi anh rời Việt Nam trở về Mỹ, Tha, cô bạn gái người Việt nơi
anh đồn trú mới biết mình có thai. Sau đó Robert gửi thư qua Việt Nam,
và cô ấy nhờ người viết dùm thư báo cho anh biết chuyện đứa con trong
bụng. Robert đã hồi âm là sẽ tìm cách qua Việt Nam lần nữa để đem cô qua
Mỹ. Tuy nhiên, ngay sau đó chiến tranh lan tới vùng cô ở nên sau cái
thư thứ hai của Robert là họ bị mất liên lạc cho tới tháng Tư năm 1975.
Kể tới đây bà Kathy thở dài:
–
Tha sinh con gái đặt tên là My, và sau chiến tranh mẹ con cô ấy bị đuổi
đi vùng rừng núi sống cuộc đời vất vả đói khát, thật là tội nghiệp.
– Đúng rồi!
Tôi
tiếp lời bà. - Sau 1975, những người có con lai bị chế độ mới đối xử
rất tệ, cũng giống như gia đình tôi, chồng tôi là quân nhân Nam Việt Nam
nên chúng tôi từ thành phố cũng bị đuổi đi vùng rừng sâu nước độc mà họ
gọi là kinh tế mới để phát rừng trồng trọt mà sống!
Bà Kathy kể tiếp.
-
Trong những năm con lai được đưa qua Mỹ, chồng tôi Robert cố gắng tìm
kiếm mẹ con bà ấy nhưng không được. Bà Tha vì đau yếu triền miên, con
gái lớn lên cơ cực không được học hành nên họ đã không còn nghĩ đến việc
tìm lại ông ấy. Mãi đến sau này, hội thánh Tin Lành giúp tìm lại được
bọn họ, nhờ vào lá thư sau cùng chồng tôi gửi bà Tha còn dấu được mang
theo, tuy đã cũ nát và phai màu, chỉ còn nhận ra mỗi chữ ký của Robert
mà thôi. Khi chồng tôi gặp lại được họ, thì bé Daisy đã hai tuổi. Nhưng
rồi vì sức yếu bà Tha đã ra đi, bỏ lại My đứa con gái còm cõi và đứa
cháu ngoại tội nghiệp này.
–
Chuyện quả thật ly kỳ! Tôi nói. - Và thật là tội nghiệp! Nhưng cũng còn
may, Thượng Đế đã giúp họ tìm lại được ông ấy trước khi họ lìa đời. Cho
nên bây giờ bé Daisy mới có chỗ nương thân mà không phải vào viện mồ
côi. Còn cha của bé đâu hả bà?
Bà Kathy lắc đầu:
–
Chúng tôi thật tình không biết! My bị chứng còi xương vì thuở nhỏ nuôi
dưỡng trong tình trạng đói khổ nên lớn không nổi, gần bốn chục tuổi mà
nhỏ xíu như đứa trẻ mười mấy, lại ốm yếu, dù mặt mũi nhìn cũng okay mà
chẳng có ai thương. Nhưng rồi không biết cái đứa khốn kiếp nào đã dụ con
nhỏ và làm cho nó mang bầu. Khi gặp lại chồng tôi rất giận, tra hỏi mãi
muốn tìm thằng đó để trừng trị, nhưng My không chịu nói tên cha của đứa
bé là ai. Gia đình họ sau đó dọn về sống cùng thành phố với chúng tôi.
Tôi đã chứng kiến Daisy rất thương bà ngoại Tha và bà cũng cưng quý bé
hơn bất cứ thứ gì. Bà nuôi bé kỹ càng, ngày lo cho ăn uống, tối hát ru
bé ngủ. Bé ít khi ngủ với mẹ đến khi bà ngoại mất.
– Vậy mẹ bé bị tai nạn ra sao mà mất?
–
Bị xe đụng, mới năm ngoái thôi. Hôm đó My đưa Daisy đi Walmart, đậu xe
xong My dắt con bé đi vào thì một bà già lui xe đụng phải My. Thay vì
đạp thắng, bà hoảng hốt đạp ga và cưỡi lên người My trước sự chứng kiến
của Daisy.
–
Trời đất ơi! Tôi thấy lạnh cả người, và tôi nói như muốn khóc. - Thảo
nào! Bé đã bị hai cú sốc quá lớn, mất bà rồi lại mất mẹ trong một thời
gian ngắn làm sao trái tim bé bỏng chịu nổi chứ!
Giọng bà Kathy cũng trở nên nghẹn ngào:
–
Robert nhà tôi đau lòng vô kể. - Ông ấy nằm liệt giường cả tháng trời.
Rồi khi dậy được thì bắt đầu uống rượu để quên. Tôi phải giúp ông ấy,
đưa Daisy về ở vói chúng tôi và lo cho nó, vì ngoài tôi ra không còn ai
có thể giúp bé hết! May mà hai đứa con của chúng tôi đã lớn và dọn ra
ngoài hết rồi.
Tôi
thật cảm phục tấm lòng nhân hậu của bà Kathy. Không có bà, Daisy tội
nghiệp biết làm sao. Người ta nói người Mỹ rất lạnh lùng và rạch ròi về
tình cảm liên quan của gia đình, hay đúng hơn là “mạnh ai nấy mạnh.”
Nhưng bà Kathy đã thương yêu đứa cháu ngoại của chồng mình bằng cả trái
tim của người bà, người mẹ ruột. Thật là chuyện hiếm thấy. Tôi nói với
bà suy nghĩ của tôi.
–
Đó là chuyện tôi phải làm mà. Kathy nói với vẻ khiêm nhượng. - Chỉ có
điều là từ khi vợ chồng tôi đem bé về nuôi, bé không có cơ hội nói tiếng
Việt với ai hết. Đó là lý do Bác sĩ tâm lý kêu tôi cho bé đi học Việt
Ngữ. Nhưng đến giờ bé cũng chưa nói được câu nào. Thật là buồn!
Nói
đến đây bà Kathy chào tôi, nói bà cần đi toa lét. Tôi ngồi suy nghĩ lan
man, chợt từ đâu hai đứa học sinh lớp lớn rượt đuổi nhau chạy ào qua
sân trường. Một đứa bỗng đâm sầm vào Daisy làm con bé ngã xuống đất, và
nó khóc thét lên. Tôi vội chạy tới đỡ bé dậy, vén áo đầm bé lên thì thấy
nơi đầu gối bị một vết thâm tím. Đau đớn làm bé khóc không ngừng. Tôi
dắt Daisy lại chỗ bàn cung cấp thức ăn, chộp vội chai nước trái cây còn
lạnh rồi đưa bé trở lại chỗ ngồi. Đặt bé ngồi trên đùi, tôi lăn nhè nhẹ
chai nước lên chỗ bầm để hơi lạnh làm cho tan sưng.
Con
bé có lẽ bớt đau nên nín khóc ngồi im, đầu tựa vào ngực tôi. Ôm đứa trẻ
vào lòng, tôi chợt nhớ lại những gì bà Kathy vừa kể, và một niềm thương
cảm dâng lên làm tôi nghẹn ngào. Tai hoạ đã giáng xuống đầu đứa bé tội
nghiệp này, còn nhỏ xíu mà đã chịu mồ côi, chứng kiến cảnh mẹ mất kinh
hoàng bảo sao bé không bị chấn động tâm thần cho được. Tôi từng tuổi này
mà khi mất mẹ còn đau đớn vô ngần, huống chi đứa bé còn đang cần sự vỗ
về của mẹ. Suy nghĩ miên man trong vô thức, tự nhiên bàn tay tôi vỗ nhè
nhẹ lên vai Daisy và buột miệng hát bâng quơ nho nhỏ vài câu ru em:
–
Ầu ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Khó
đi mẹ dắt con đi, con thi trường học... mẹ thi trường đời...
Đột nhiên tôi giật mình vì cảm giác có một bàn tay nhỏ mềm mại sờ lên mặt tôi. Rồi có tiếng gọi:
– Cô ơi!
Tôi
sững sờ, không tin vào tai mình. Đó là tiếng của bé Daisy. Tôi nhìn
xuống, thì ra là bé gọi tôi, bàn tay bé vẫn còn sờ lên mặt tôi, ánh mắt
bé ngước nhìn thật là thân thiện và đầy vẻ tin cậy.
– Con mới gọi cô hả? Tôi lập cập hỏi, cảm thấy tim mình đập thật nhanh.
– Cô ơi! Daisy gọi lần nữa. - Con... lạnh...
Chai
nước trái cây trên đầu gối Daisy rời khỏi tay tôi, rơi đánh bộp xuống
đất. Tôi đưa bàn tay lạnh ngắt vì nãy giờ cầm chai nước, nắm lấy bàn tay
nhỏ xíu đang sờ mặt tôi và hôn lên đó. Nước mắt tôi rơi làm ướt tay con
bé. Vậy là bé đã mở miệng. - Cám ơn con! Tôi thì thầm, siết chặt bé vào
lòng.
– Oh my God!
Có
tiếng kêu đầy ngạc nhiên bên cạnh. Tôi quay lại thì thấy bà Kathy đang
đứng mồm há hốc, mắt trợn tròn nhìn chằm chằm vào Daisy.
–
Bé vừa gọi tôi “Cô ơi" bằng tiếng Việt đấy bà ạ! Tôi la lên với bà bằng
nỗi vui mừng khôn tả. Bà Kathy nghe thế thì kêu to hơn:
–
God! Chúa ơi! Con bé đã nói được! Bà nói xong chạy lại ngồi xuống cạnh
tôi rồi choàng tay qua ôm lấy Daisy, nói trong tiếng khóc: - Oh My God!
Cháu tôi đã nói chuyện lại được rồi! Thật không uổng công tôi đưa bé đến
đây!
Và bà lấy điện thoại ra gọi ông chồng, líu lo hớn hở khoe với ông Robert về chuyện bé Daisy đã nói được, mà còn nói tiếng Việt.
Tôi
cũng cảm động đến nghẹn lời. Hít sâu và thở vài hơi, tôi kể lại cho bà
Kathy nghe về lời ru tiếng Việt tôi vừa hát ru để vỗ về cho bé nín khóc
vì bị ngã sưng đầu gối. Lời ru mà bất cứ người mẹ, người bà Việt Nam nào
cũng biết hát ru cho các bé thơ. Vậy là nhờ tiếng ru vô tình của tôi dỗ
dành đã đánh thức được tâm trí của bé. Có lẽ là bà ngoại quá cố của bé
hay mẹ bé cũng đã từng hát ru cho bé ngủ bằng bài hát ru này chăng?
Bà Kathy tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng, luôn miệng lập đi lập lại hai chữ “Thần kỳ! Thần kỳ” (Miracle!).
Tôi
cũng thấy quả đúng là thần kỳ! Lời ru con của người mẹ Việt Nam đã đánh
thức được tâm trí bị đóng băng của đứa bé. Vô lại phòng tập, tôi đội
cho Daisy chiếc vương miện và đưa bé cái lồng đèn. Lần này bé không đẩy
ra nữa, mà nhập vào cũng các bạn rồi cầm lồng đèn đi vòng quanh, miệng
bé cũng bập bẹ hát theo bài “Rước Đèn Tháng Tám.
Lúc chào tôi ra về, bà Kathy bất chợt cầm lấy tay tôi và nói một cách thiết tha:
–
Cô giáo à! Tôi muôn vàn cám ơn cô! (Millions thanks!) Nhờ cô, mà bé
Daisy đã nói lại được. Tôi nghĩ mình cũng có lỗi, vì trong nhà mọi người
đều nói tiếng Anh, đáng lý tôi phải cho bé đi học tiếng Việt sớm hơn,
hoặc chí ít tôi cũng phải tìm bạn Việt Nam cho chơi với bé! Bà do dự một
chút rồi nói tiếp: - Tôi vừa nghĩ ra chuyện này, không biết cô có thể
giúp tôi chăng?
– Bà cứ nói, nếu làm được tôi sẽ không ngại đâu.
–
Tôi muốn học tiếng Việt! Bà cười vẻ bẽn lẽn. - Chắc là khó lắm đây, tôi
chẳng biết có học nổi không. Nhưng tôi rất muốn học để về nhà tôi có
thể nói chuyện trao đổi chút đỉnh vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh với
Daisy.
Nghĩ tới cái cảnh lâu nay bé không nói được lời nào tôi thương quá!
Tôi
thật xúc động vì cái tình cảm bà Kathy dành cho Daisy. Tự nghĩ nếu mình
ở vai trò “bà ngoại ghẻ” như bà không biết có đủ rộng lượng để làm như
bà ấy hay không.
–
Sure! Chắc chắn rồi! Tôi nói. - Bà là một bà ngoại tuyệt vời! Tôi rất
vui được làm điều này cho bà. Tiếng Việt học thú vị lắm chứ không khó
đâu! Bà sẽ học được!
Tôi
kể bà nghe về cô ca sĩ Mỹ tóc vàng Dalena ban đầu không hể biết tiếng
Việt, nhưng giờ thì hát tiếng Việt hay nổi tiếng khắp nơi, nhiều chương
trình, băng đĩa, sân khấu tiếng Việt đã mời cô đến hát và cô có rất
nhiều fan hâm mộ người Việt khắp nơi trên thế giới.
Bà Kathy mừng quính:
– Oh yeah! Thú vị thật! Robert chắc chắn sẽ vui lắm!
Từ
đó mỗi buổi học bà Kathy đưa bé Daisy đến tôi kêu bà vô lớp ngồi học
chung với Daisy. Tan học ra ngoài tôi nán lại nửa giờ đưa bà và bé Daisy
vô ngồi trong xe tôi để dạy thêm cho họ.. Ông xã tôi nghe kể chọc là
tôi mở “Lớp học trong xe".
Tôi
về soạn thêm nhiều câu đàm thoại ngắn hàng ngày và những câu chào hỏi
thông thường bên trên viết tiếng Việt bên dưới tiếng Anh và đưa cho bà
Kathy đem về nhà học. Bà ấy rất thông minh và ham học. Bà kể ngày xưa bà
từng học tiếng Tây Ban Nha (Spanish), ngôn ngữ mà cách phát âm gần
giống tiếng Việt nên bây giờ học tiếng Việt khá dễ dàng. Bà đã nói đúng,
tiếng Tây Ban Nha cách dùng chữ cũng tương tự Việt Ngữ của chúng ta,
tính từ luôn đứng sau danh từ chứ không phải đứng trước như tiếng Anh.
(Tiếng Anh: The red house, Việt: Cái nhà đỏ, Spanish: La casa roja).
Daisy
từ đó cũng siêng hơn nên tiến bộ rất nhiều. Bà cháu học bằng cách mỗi
ngày về nhà sau khi Daisy học và làm bài tập ở trường xong, thì hai bà
cháu thực tập tiếng Việt với nhau. Mỗi buổi đến học bà đều khoe với tôi
hai bà cháu học được bao nhiêu chữ. Bà cho tôi biết từ khi Daisy nói
chuyện bình thường ông Robert đã thấy khoẻ hẳn ra và không uống rượu
nữa. Hai người còn tính chuyện khi Daisy lớn lên, thế nào họ cũng sẽ đưa
Daisy đi du lịch Việt nam một chuyến về thăm lại quê ngoại bé, cũng là
nơi ông Robert từng đóng quân ngày xưa.
Rồi
ngày văn nghệ Trung Thu cũng đến. Tối đó, sau khi sắp xếp cho tiết mục
lớp tôi xong thì tôi giao lại cho cô Linh trông chừng bọn trẻ, tôi ra
bên ngoài tìm ông xã. Tôi còn đang nhìn dáo dác, bỗng đâu bà Kathy đưa
ông Robert lại gặp tôi, trên tay ông cầm một bó hoa. Mặc áo khoác màu
lính, đầu đội mũ dìm có chữ “Viet Vet” và hàm râu quai nón, trông ông
rất oai phong. Thảo nào bà Kathy lại yêu ông đến thế, tôi mỉm cười thầm
nghĩ. Trong lòng tôi rất cảm động, Robert là luật sư đã về hưu, mà vẫn
thích trang phục kiểu nhà binh thuở còn đi chiến đấu, chứng tỏ ông mê
đời binh nghiệp hơn là cái nghề làm thầy cãi kiếm nhiều tiền sau này.
Ông nghiêng mình chào và trao bó hoa cho tôi:
–
Cám ơn cô thật nhiều, đã giúp cho Daisy nhà tôi trở lại trạng thái bình
thường. Không thể nào nói hết lòng cám ơn của gia đình tôi đối với cô
đâu!
–
Dạ tôi không có công gì lớn đâu ông! Tôi cười, quay sang bà Kathy: -
Ông phải cám ơn bà nhà mới đúng! Kathy quả là người phụ nữ thật nhân
hậu. Ông có phúc lắm, bà Kathy đã thương và lo lắng chăm sóc bé Daisy
rất thật lòng, lại còn chịu khó đi học tiếng Việt để còn nói chuyện với
Daisy nữa chứ.
Ông cười, nụ cười tràn đầy hạnh phúc:
–
Ở nhà Bà ấy và Daisy còn dạy tôi vài chữ tiếng Việt nữa đó! Tôi ở Việt
Nam hơn một năm nhưng chỉ biết được mấy chữ “Xin chao”, “Cam on” thôi.
Bà ấy nói học tiếng Việt thật là thú vị.
Tới
đây thì loa thông báo buổi lễ sắp bắt đầu, tôi phải chào từ giã ông bà
để vào cùng cô phụ giáo chuẩn bị cho tiết mục của lớp tôi.
Buổi
lễ Tết Trung Thu hôm ấy thật là vui nhộn, các bài hát Trung Thu, điệu
múa, kịch nói. Nhờ sự tận tâm của quý thầy cô, các em trình diễn hết
mình, nhìn rất chuyên nghiệp, và nhận được nhiều tràng pháo tay vang
dội.
Đến
tiết mục “Rước Đèn” của lớp tôi, tôi đứng chỗ góc khán đài quan sát các
em trình diễn. Chúng tôi trang điểm cho tất cả các em, kể cả con trai,
bé nào cũng đều má đỏ môi hồng xinh xắn. Daisy nhìn rất dễ thương trong
áo dài chữ thọ màu hồng, tay cầm lồng đèn con cá, vừa đi cùng các bạn
vừa hát theo bài “Rước Đèn” trong CD. Bé bước lắc lư theo điệu nhạc,
miệng hát tay ve vẩy lồng đèn, mặt mày rạng rỡ dưới ánh đèn sân khấu:
“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi
Em rước đèn đi khắp phố phường
Lòng vui sướng với đèn trong tay
Em múa ca trong ánh trăng rằm…”
Liếc
mắt qua chỗ vợ chồng bà Kathy, tôi thấy ông Robert cầm tay bà đưa lên
cao vung vẩy qua lại theo nhịp bài hát của các bé, miệng hai người cười
đến như không thể khép lại…
Giáng
Sinh năm đó, tôi nhận được một giỏ quà với đủ loại trái cây tươi, được
cắt sẵn theo những hình ngôi sao, trái tim, chim, cá... rồi nhúng vào sô
cô la, của hảng “Edible Fresh Fruit Arrangements” đem giao tận nhà, có
kèm theo tấm thiệp ghi bằng tiếng Việt, “Chúc Mừng Giáng Sinh Cô Giáo
Linda. Học trò cô: Kathy và Daisy.”
Phương Hoa (bài do bạn Bá Trần giới thiệu)