Ngoài giá trị dinh dưỡng, sữa bò còn có một số ích lợi về y học cũng như có thể gây ra một vài trở ngại cho người dùng sữa. Vì thế, khi dùng thì cũng cần phải có những hiểu biết nhất định.
Lợi ích về y học
Nhiều nghiên cứu y khoa học cho thấy sữa có một số ích lợi đối với sức khỏe.
a- Ngăn ngừa bệnh loãng xương, còn gọi là bệnh xương xốp. Loãng xương thường xảy ra ở người cao tuổi nhất là nữ giới vào thời kỳ mãn kinh, kích thích tố nữ estrogen giảm thiểu. Loãng xương dễ đưa đến gãy xương, đặc biệt là xương đùi.
Loãng xương có thể tránh được nếu ta dùng đủ số lượng calcium cần thiết, tức là khoảng 1,200 mg mỗi ngày. Ba ly sữa không chất béo cung cấp đủ số calcium này.
b- Vì được tăng cường thêm sinh tố D nên sữa có thể ngăn ngừa bệnh còi xương trẻ em.
c-Một nghiên cứu tại bệnh viện St. Luke, New York, cho hay uống thêm 1,200 mg calcium mỗi ngày có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu của hội chứng tiền kinh nguyệt. Sữa bò có nhiều calci nên có thể được dùng làm nguồn cung cấp calci dễ dàng.
d- Năm 1985, Bác Sĩ Cedric Garland thuộc trường Đại Học California-San Diego, công bố kết quả quan sát hơn 2,000 người đàn ông trong 20 năm. Ông ta thấy rằng những người mỗi ngày uống hai, ba ly sữa thì có ruột già tốt lành hơn và cũng ít bị ung thư hơn người không uống sữa. Một nghiên cứu khác ở Úc vào năm 1987 cũng xác định nhận xét này.
Tạp san của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ (JAMA) số ra ngày 23 Tháng Chín, 1998, có đăng kết quả một cuộc nghiên cứu, theo đó sữa và các phó sản như pho mát, kem… đang trở thành những công cụ hữu hiệu trong việc ngăn ngừa ung thư ruột.Nhiều khoa học gia cho rằng đó là nhờ sữa có nhiều calcium. Trong ruột khoáng chất này vô hiệu hóa acid mật (bile acid), một chất được coi như có nguy cơ gây ra ung thư ruột già.
e- Theo Bác Sĩ George Mann thì sữa đã bỏ bớt chất béo có thể làm hạ mức độ cholesterol trong máu. Một nghiên cứu bên Nhật Bản cũng tìm thấy cùng kết quả là ở loài chuột, sữa ít béo làm bớt những bựa cholesterol bám trong động mạch.
f- Nhờ nhiều calci nên sữa có thể làm hạ huyết áp. Kết quả nghiên cứu của Viện Tim, Phổi và Huyết Học Quốc Gia tại Hoa Kỳ cho hay người không uống sữa bị cao huyết áp nhiều gấp đôi người uống sữa mỗi ngày.
g- Những người nghiện thuốc lá nếu uống nhiều sữa sẽ ít bị viêm cuống phổi kinh niên hơn so với người hút thuốc mà không uống sữa. Đó là kết quả nghiên cứu của các khoa học gia tại đại học danh tiếng John Hopkins bên Hoa Kỳ.
h- Đã từ lâu, các cụ ta vẫn biết là sữa có công dụng làm giảm các dấu hiệu khó chịu khi bị loét bao tử. Cách đây vài chục năm, một nghiên cứu tại Đại Học Harvard cũng thấy là nhóm sinh viên uống nhiều sữa ít bị viêm bao tử hơn nhóm không uống sữa. Đó là nhờ chất prostaglandin có trong sữa.
Nhưng nên chú ý rằng nếu đã bị viêm bao tử thì sữa lại làm bệnh trầm trọng hơn vì sữa kích thích dạ dầy tiết ra nhiều acid.
i- Kết quả nghiên cứu của Bác Sĩ Robert Yolken, Đại Học Y Khoa Johns Hopkins, Baltimore cho hay sữa bò chứa một loại kháng thể có khả năng bảo vệ trẻ em khỏi bị chứng tiêu chảy gây ra do Rotavirus.
j- Nhiều người tin là muốn dễ dàng đi vào giấc ngủ thì uống một ly sữa nóng trước khi lên giường, vì hóa chất tryptophan trong sữa làm dịu các sinh hoạt não. Nhưng một số nghiên cứu khác lại cho rằng sữa, nhất là sữa ít béo, làm ta tỉnh táo, khó ngủ hơn.
k- Ngoài ra sữa còn được cho là có khả năng ngăn ngừa ung thư, làm bớt sâu răng, chống nhiễm vi khuẩn…
Tuy nhiên, sữa là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra dị ứng, với các triệu chứng như nổi ban ngứa trên da, sưng môi và mi mắt, khó chịu trong hệ tiêu hóa. (Hình: health.clevelandclinic.org)
Dị ứng – bất dung sữa
Dị ứng và bất dung với một thực phẩm là hai hiện tượng hoàn toàn khác biệt.
Không dung nạp sữa là không dùng được sữa vì không tiêu hóa được đường lactose trong sữa. Những người này không có diếu tố lactase trong cơ thể, đặc biệt thường thấy ở người Châu Á và Châu Phi. Diếu tố này chuyển hóa lactose thành glucose và galactose, là các dạng dễ tiêu hóa hơn. Người không dung nạp mà vẫn uống sữa thì thấy đầy bụng, đi tiêu chảy, lâm râm đau bụng.
Dị ứng với sữa là những trường hợp mà cơ thể phản ứng, đôi khi rất mạnh, với chất đạm trong sữa. Dị ứng sữa khá hiếm và cần được sự xác định cũng như hướng dẫn giải quyết bởi các giới chức y khoa chuyên môn.
Theo nhiều nghiên cứu, một người dù có bất dung với sữa có lactose vẫn có thể uống được một vài ly sữa mỗi ngày nếu biết áp dụng một vài biện pháp như sau:
- Uống sữa từng ít một, chia làm nhiều lần trong ngày cùng với bữa ăn chính hoặc thời gian giữa các bữa ăn.
- Có thể dùng pho-mát hay sữa chua thay cho sữa hoặc chọn loại sữa đã được giảm bớt lactose.
- Dùng kèm với men lactase dạng tổng hợp (Lactaid) hiện có bán trên thị trường. Có thể uống một viên hay mươi giọt Lactaid trước khi uống sữa.
Calci trong sữa
Calci có trong rất nhiều loại thực phẩm, nhưng theo nhiều nhà dinh dưỡng thì sữa vẫn là nguồn cung cấp calci nhiều và tốt hơn cả.
Theo mức tiêu thụ hiện nay, sữa cung cấp tới 73% tổng số calcium trong tất cả các loại thực phẩm, và calcium trong sữa được cơ thể hấp thụ dễ hơn. Không thực phẩm nào cung cấp được lượng calcium tương dương như sữa.
Chẳng hạn như muốn có lượng calcium tương đương với một ly sữa , ta phải ăn bốn ly súp lơ trắng, bốn ly đậu, ba ly cải xoăn, hoặc một ly hạt hạnh nhân.
Ngoài ra sữa còn có nhiều chất đạm, riboflavin, sinh tố A và D có thể giúp sự hấp thụ calci dễ dàng hơn.
Theo các nhà dinh dưỡng, mỗi ngày ta cần 1,200 mg calci, với lượng tối đa có thể chấp nhận được là 2,500 mg và nếu chỉ dùng quá nhiều trong một vài ngày thì không sao. Nếu dùng nhiều hơn nữa và kéo dài liên tục thì sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thận, mắt, và gây các triệu chứng như ăn mất ngon, mệt mỏi, ói mửa, suy nhược…
Sữa mẹ
Hiện nay, không ai phủ nhận việc nuôi con bằng sữa mẹ có nhiều lợi điểm hơn sữa bò. Xin tìm hiểu thêm về vấn đề này.
Các nhà y học đều đồng ý là trẻ bú mẹ được cung cấp những chất dinh dưỡng hoàn hảo và đầy đủ nhất. Ngoài ra còn có các lợi điểm sau:
a- Sữa mẹ hội đủ những nhu cầu dinh dưỡng của hài nhi trong mấy tháng đầu sau khi sanh.
b- Sữa mẹ không tốn tiền mua, sẵn sàng khi cần mà không phải pha chế.
c- Sữa được chứa trong vú, rất an toàn, không sợ nhiễm chất có hại, lại ở nhiệt độ thích hợp, không phải hâm nóng.
d- Có sẵn một số kháng thể giúp con tăng cường hệ thống miễn nhiễm
e- Sữa mẹ có nhiều đường lactose giúp trẻ hấp thụ calci và sắt dễ dàng hơn cũng như ngăn chặn sự tăng trưởng của vi sinh vật trong ruột.
f- Chất đạm trong sữa mẹ chỉ bằng 1/3 trong sữa bò, nhưng dễ tiêu hơn và có nhiều chất làm tăng cường hệ miễn nhiễm của trẻ.
g- Chất béo trong sữa mẹ nhiều hơn sữa bò một chút nhưng hầu hết thuộc nhóm bất bão hòa, ít có tác dụng xấu.
h- Sữa mẹ có đủ các sinh tố hòa tan trong nước và trong chất béo, ngoại trừ sinh tố D, cho nên trẻ em bú sữa mẹ cần dùng thêm sinh tố này.
i- Những giọt sữa non (colostrum) trong mấy ngày đầu sau khi sinh có nhiều chất đạm, ít lactose và chất béo, có nhiều kháng thể. Sữa non có tác dụng nhuận tràng rất tốt và giúp kích thích chức năng bài tiết của ruột.
j- Sữa mẹ còn bảo vệ trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng màng não, ruột, hô hấp. ..
k- Khi lớn, trẻ em nuôi bằng sữa mẹ cũng ít bị một số bệnh như dị ứng, béo phì, tiểu đường, suyễn, vài bệnh tim, phổi cũng như vài loại ung thư.
l- Nuôi con bằng sữa mình, bà mẹ cũng có nhiều lợi ích. Quan trọng nhất là đã tạo ra tình cảm gắn bó, ràng buộc thân yêu mẹ và con.
Ngoài ra, khi con ngậm hút núm vú, dạ con của mẹ được kích thích mau co trở lại kích thước bình thường do đó bớt băng huyết. Người mẹ cũng bớt mập.
Đây cũng là cách ngừa thai tự nhiên vì khi cho con bú sữa thì sự rụng trứng của người mẹ cũng như thời gian trở lại vòng kinh sẽ chậm lại khoảng 10 tuần lễ, có khi đến một năm.
Người mẹ cũng giảm thấp được nguy cơ ung thư vú và loãng xương khi vào tuổi mãn kinh.
Rủi ro của sữa
Mặc dù có nhiều lợi điểm, nhưng sữa cũng có thể mang lại một số rủi ro cho người dùng, nhất là khi lạm dụng sữa quá mức bình thường..
a- Là thực phẩm từ động vật, sữa nguyên trạng là nguồn chất béo bão hòa và cholesterol đáng kể mà hai chất này khi tiêu thụ nhiều lại là những nguy cơ gây ra bệnh tim mạch. Cho nên cần giới hạn cholesterol không quá 300 mg và số calori do chất béo không quá 30% tổng số nhu cầu calori trong ngày. Nếu dùng, nên chọn các loại sữa ít béo hoặc không béo.
b- Sữa là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra dị ứng, với các triệu chứng như nổi ban ngứa trên da, sưng môi và mi mắt, khó chịu trong hệ tiêu hóa.
c- Hiện tượng bất dung sữa có đường lactose, như đã trình bày.
d- Sữa tươi chưa nấu có thể nhiễm vi khuẩn Salmonella, Listeria, gây ra các triệu chứng như là ói mửa, tiêu chẩy
e- Calci trong sữa có thể làm giảm công hiệu của vài loại thuốc kháng sinh như Terramycin, Minocin, Vibramycin khi dùng chung với nhau.
Kết luận
Sữa là nguồn dinh dưỡng dồi dào và thích hợp với mọi lứa tuổi, là thực phẩm rất tốt cho sức khỏe con người. Chỉ cần hiểu biết đầy đủ và không lạm dụng thái quá, sữa không mang lại những rủi ro nghiêm trọng về sức khỏe như một số thực phẩm khác, chẳng hạn như thịt, chất béo…
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức-- theo nguoipuongnam 1/10/201