Theo công bố mới nhất của WHO, số ca mắc mới ung thư của Việt Nam năm 2018 đã tăng lên 165.000 ca.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố tình hình ung thư hiệu chỉnh theo độ tuổi tại 185 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong đó, 10 quốc gia có tỉ lệ ung thư cao nhất đều là những nước phát triển: Úc đứng số 1 với tỉ lệ mắc ung thư cả 2 giới ở mức 468/100.000 dân; New Zealand (438); Ireland (373); Hungary (368); Mỹ đứng thứ 5 với tỉ lệ 352, kế đó là Bỉ, Pháp, Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan...
Tỉ lệ trên tương đương với số người mắc thực tế tại Úc là gần 200.000 ca; New Zealand xấp xỉ 36.000 ca; Mỹ có hơn 2,1 triệu ca mắc mới.
Tại Châu Á, Hàn Quốc có tỉ lệ mắc ung thư cao nhất (313), xếp vị trí thứ 13 trên bản đồ ung thư thế giới; đứng thứ 2 là Singapore (282, xếp vị trí 42 thế giới); Nhật Bản xếp thứ 3 (248, vị trí 43 thế giới); Trung Quốc xếp vị trí thứ 9 châu Á và 68 thế giới với tỉ lệ 202/100.000 dân.
Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore có tỉ lệ mắc ung thư cao nhất, kế đó là Philippines (163, vị trí 89 thế giới); Thái Lan vị trí 92 thế giới (152); thứ 4 khu vực là Lào (154, vị trí 97 thế giới).
Việt Nam xếp vị trí 99/185 quốc gia và vùng lãnh thổ với tỉ lệ mắc ung thư 151,4/100.000 dân, xếp 19 châu Á và thứ 5 tại khu vực Đông Nam Á. Vào năm 2015, Việt Nam xếp vị trí 107 và thời điểm 2013 xếp ở vị trí 108.
Những quốc gia có tỉ lệ chết vì ung thư lớn nhất gồm: Mông Cổ (170/100.000 dân); thứ 2 là Hungary (155); Ba Lan ở vị trí số 8 (136); Trung Quốc ở vị trí số 12 (130); Lào xếp vị trí 33; Pháp xếp vị trí 42; Canada xếp 84; Mỹ xếp vị trí 91 (91/100.000 ca); Nhật Bản ở vị trí 112 (85,2/100.000 dân)...
Theo thống kê của WHO, số ca mắc mới ung thư tại Việt Nam không ngừng tăng, từ 68.000 ca năm 2000 lên 126.000 năm 2010. Năm 2018, số ca mắc mới tăng lên gần 165.000 ca/96,5 triệu dân, trong đó gần 70% trường hợp tử vong, tương đương 115.000 ca.
Nhìn tổng quan trên bản đồ ung thư thế giới, tỉ lệ mắc của Việt Nam không cao, tuy nhiên tỉ lệ tử vong tương đối lớn, xếp vị 56/185 quốc gia và vùng lãnh thổ với tỉ lệ 104,4/100.000 dân. Vào năm 2016, tỉ lệ tử vong của Việt Nam ở mức 110/100.000 dân.
Tính chung cả 2 giới, 5 loại ung thư có tỉ lệ mắc nhiều nhất tại Việt Nam gồm: Ung thư gan, hơn 25.000 ca (15,4%), kế đó là ung thư phổi (14,4%), ung thư dạ dày (10,6%), ung thư vú, ung thư đại tràng.
5 loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới Việt gồm: Ung thư phổi (21,5%), ung thư gan (18,4%), ung thư dạ dày, ung thư đại tràng; ung thư hầu họng. Ở nữ giới, hàng đầu vẫn là ung thư vú, ung thư đại tràng, ung thư phổi, ung thư gan.
Số ca mắc mới ung thư tại Việt Nam năm 2018 |
Tổ chức sáng kiến toàn cầu về ung thư (GICR, thuộc WHO) cho biết, các số liệu có được dựa trên những nguồn tốt nhất được cung cấp tại mỗi nước.
WHO cho biết, ung thư đang là một trong những thách thức sức khoẻ cộng đồng quan trọng nhất của thế kỷ 21. Khoảng 40% trường hợp ung thư có thể được ngăn ngừa bằng cách giảm tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ bao gồm chế độ ăn uống, dinh dưỡng, hoạt động thể chất.
Minh Anh- vietbao 24/9/2018
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đọc thêm
5 bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam
1. Ung thư phổi
Đứng đầu danh sách những những căn bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam đó chính là bệnh ung thư phổi, đặc biệt là ở nam giới.
Cụ thể, số ca mắc ung thư phổi ở nam giới năm 2000 chỉ là 6.905 ca với 29,3 người/100 nghìn dân, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên 14.652 ca và tỷ lệ mắc là 35,1 ca/100 nghìn dân. Theo ước tính, đến năm 2020 tỉ lệ nam giới mắc bệnh ung thư phổi ở nước ta sẽ là 22.938 ca.
Mặc dù ung thư phổi được xác định 90% là do khói thuốc, tuy nhiên có rất nhiều phụ nữ không hút thuốc nhưng vẫn có nguy cơ bị bệnh. Lí giải về điều này, các bác sĩ cho biết, tình trạng hút thuốc lá thụ động là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến phụ nữ bị ung thư phổi.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu và Phòng chống ung thư, số ca mắc ung thư phổi ở nữ giới năm 2000 chỉ khoảng 2.001 ca, tỷ lệ mắc là 6,5 người/100 nghìn dân thì sau 10 năm, con số này đã lên tới 5.709 ca và tỷ lệ mắc là 13,9/100 nghìn người dân. Ước tính đến năm 2020 số ca mắc ung thư phổi ở nữ giới sẽ là 11.656 ca.
2. Ung thư dạ dày
Ung thư dạ dày là căn bệnh đứng hàng thứ hai ở nam giới sau ung thư phổi và thứ ba ở nữ giới sau ung thư vú và cổ tử cung. Theo số liệu thống kê, năm 2000 số ca bị ung thư dạ dày tại nước ta là 5.711, sau đó tăng gấp đôi là 10.394 ca vào năm 2010. Và ước tính đến năm 2020 số bệnh nhân bị ung thư dạ dày sẽ là 11.502 ca.
So sánh cho thấy, tỷ lệ mắc ung thư dạ dày ở nữ thấp hơn ở nam giới nhưng nhìn chung cũng gia tăng nhanh.
3. Ung thư gan
Đứng thứ 3 trong danh sách những bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam đó là bệnh ung thư gan ở nam giới với số ca mắc là 5.787 ca. Năm 2010 số ca mắc bệnh ung thư gan ở cả nam giới và phụ nữ là 9.372 ca, tỷ lệ số người mắc trên 100 nghìn dân là 23,6 người. Ước tính năm 2020, tỷ lệ này sẽ lên tới 11.030 ca mắc.
Các chuyên gia cho biết, tỷ lệ ung thư gan ở nam giới luôn cao hơn phụ nữ là vì ngoài nguyên nhân mắc viêm gan vi rút thì đàn ông thường có thói quen uống rượu, hút thuốc lá... Và đây chính là 2 nguyên nhân hàng đầu dẫn tới bệnh.
Thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 20 năm, tỷ lệ bệnh nhân ung thư đại trực tràng đã tăng gấp 5 lần. Cụ thể, ở nam giới số ca mắc năm 2000 là 2.878 ca, đến năm 2010 tỷ lệ này tăng gần gấp 3 là 7.568 ca, tỷ lệ người mắc trên 100 nghìn dân là 19 người và đến năm 2020 dự báo sẽ là 13.269 nam giới bị ung thư trực tràng.
Ở nữ giới, số lượng bệnh nhân bị ung thư trực tràng cũng tăng chóng mặt, năm 2000 là 2.566 ca, đến năm 2010 số ca ghi nhận đã lên 6.110 ca, số người mắc trên 100 nghìn dân là 14,7 người. Ước tính, đến năm 2020 số ca mắc bệnh này sẽ tăng lên 11.124 ca.
5. Ung thư vú
Ung thư vú là căn bệnh đứng đầu về các bệnh ung thư ở nữ giới. Năm 2000 số ca mắc ung thư vú ở Việt Nam chỉ có 5.536 ca. 10 năm sau, tức năm 2010 thống kê số bệnh nhân đã tăng hơn gấp đôi lên 12.533 ca, tỷ lệ số người mắc trên 100 nghìn dân là 29,9 người. Với mức độ tăng như hiện nay, ước tính đến năm 2020 số ca mắc ung thư vú sẽ lên tới 22.612 ca.