THÓI ĂN
Không biết có phải do hoàn
cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xưa, mà người Á đông nói chung, người Việt nói riêng,
đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải chỉ để sinh tồn, mà còn để hưởng
thụ. Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho sướng miệng cái đã, mấy chuyện khác tính
sau.
Ở đâu lúc nào, một mình hay
nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi trong bếp coi có
cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay sau gì cũng phải
kiếm thứ gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya. Vì vậy,
trong kho tàng Việt ngữ có vô số động từ đôi đi chung với “ăn”. Điểm này không
thấy có trong ngôn ngữ của các dân tộc khác.
Nhưng “ăn” nhiều khi lại không có nghĩa là “ăn”, mới
lạ!
Tụ họp đình đám, lễ lạt giỗ tết,
người mình nói “ăn cưới”, “ăn tết”, “ăn giỗ”, “ăn cúng”, “ăn đám ma”, “ăn đầy
tháng”, “ăn thôi nôi”, … Từ “ăn” trong những nhóm từ này rõ ràng là hành động
đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được. Giống như “ăn”
trong “ăn khín”, “ăn chực”, cũng là “ăn”, nhưng hàm ý không mấy tốt, tới ăn
không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại nhiếc móc sau lưng:
“Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn
khín mà không biết mắc cỡ!”
Nhưng
“ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực nằm chờ” lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải
quyết một vấn đề gì đó. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ
những làng quê xa xôi có việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường
đem theo đồ ăn thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu
lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp: Ăn để chực chờ tới lượt được vô hầu quan
lớn.
Còn có chuyện “ăn ké” nữa kìa!
Trong vở tuồng ăn uống này, có hai vai: chính và phụ. Vai chính là người quyết
định chuyện ăn, còn vai phụ “ăn ké” là kẻ chầu rìa, được vai chính cho gì ăn
nấy, đôi khi là miếng ăn dư. Đó là nghĩa đen. Còn nghĩa bóng? Trong chuyện bài
bạc, bài cào hay xì-dách, thường có người ít tiền hay nhát gan đứng ngoài, nhưng
để ý coi tay con nào có số đỏ, lâu lâu lại chồng thêm tiền đặt ké, khi thắng gọi
là “ăn ké”.
Phong cách ăn uống, nói
năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục, lễ giáo của
người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái, bởi lẽ thời xưa không được tới trường,
được mẹ dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở”, coi như những chuẩn mực để
xử thế và giao tiếp trong gia đình, họ hàng và ngoài xã hội. Nghĩ rộng, thấy bốn
món “công, dung, ngôn, hạnh” được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây,
người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và nghĩa bóng của
cụm từ “học gói, học mở” trong thành ngữ này. Tự điển Việt ngữ có vài cách giải
thích khác nhau, không biết thực hư ra sao?).
Vậy, “ăn” khi đi chung với “nói” được hiểu là đối
đãi, cư xử. Nhưng khi cặp kè với “nhậu”, tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn
toàn khác: “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô đâm
ra mất lòng.” Ở đây, không biết vì nỗi niềm trắc trở gì mà “ăn nhậu” đành đoạn
chia tay, không còn luyến tiếc chút dư vị nào của “ăn uống, nhậu nhẹt” nữa, để
cải trang, đổi lớp thành “dính líu, dính dáng”. Lạ, nhưng không
lớn!
Chuyện lớn chỉ thực sự xảy ra,
khi “ăn” lỡ chung chạ với “nằm”. Thử nghe mẹ quát con gái:
“Hả, cái gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái
thằng trời đánh thánh đâm, lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là
con!”
Nhất định là phải có “ăn” vô
đây thì “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và được dùng để ám chỉ những
trường hợp chung chạ xác thịt không chính thức. Vợ chồng với nhau, không ai,
hoặc không nên, nói “ăn nằm”, mà nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt
trách cứ:
“Vợ chồng mình ăn ở với
nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ lòng nào ăn nằm với con
ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết ăn nói sao đây với con
cái?”
Nghe thương xót biết mấy! Và,
“ăn nói” trong tình huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây là
lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình lớn một cách vô
cùng khó hiểu.
Chuyển qua “ăn vụng”.
Nghĩa đen ý nói “giải quyết cái đói một cách lén lút”: “Nhà tôi có tật ăn vụng
ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm nguội.” Chuyện nhỏ, không
sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo trẹo cảnh cáo: “Tôi nói cho anh
biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi biết được, đừng có trách tôi ác!” Và, tới
khi bạn gái trề môi nhún mỏ rỉ tai nhau: “Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép,
bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đáng đời!”, thì chuyện đã… mọc trăng sao, đang tối thành
sáng trưng. Hành động “ăn vụng” trở mặt, chỉ còn độc nhất một nghĩa bóng: “Đã có
gia đình, còn lén lút ngoại tình.”
Trực tiếp hay gián tiếp cùng nghĩa với “ăn”, trong
tiếng Việt có “ăn xin”, “ăn mày”: “Xin” người khác để có miếng ăn, để sinh sống.
(Chữ “mày” trong “ăn mày” ngụ ý gì, có dính dáng gì tới “mày ốc”, “mày ghẻ” hay
không, người viết không rõ. Tìm trong tin mạng, thấy bác Google phán: “mày” có
nghĩa bóng là “của bố thí”.) Không riêng gì ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế
giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, nghe nói có cả làng sống
bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con (?). “Ăn mày”, lẽ đó, nghiễm nhiên trở
thành cái nghề. Để rồi, từ “nghề” chuyển ra “nghiệp”, đâu mấy hồi. Sinh ra,
vướng nghiệp “ăn mày”, cuộc đời hẳn nhiên rách, rách tả tơi. Đâu mấy ai nhờ đó
mà “ăn nên làm ra”
Qua tới các động
từ “ăn cắp”, “ăn trộm”, “ăn cướp” thì đột nhiên “ăn” không còn ý nghĩa là hành
động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà: lấy của người
khác làm của riêng.
Ca dao có
câu:
Con ơi học lấy nghề
cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm
làm.
Thì ra, không phải chỉ có nghề
“ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa hẹn một tương lai
sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ, “thu nhập” ngang ngửa ba năm
làm. Nghe bắt ham!
Dĩ nhiên, đã là
nghề thì phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi mẫn
sau khi tốt nghiệp học đường “ăn mày”, và có chiến thuật tiến thoái gọn gàng, êm
thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “cử nhân ăn trộm”. Theo học trường ốc ở
đây, học viên không cần ghi danh, đóng lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày
được bảng vàng ghi tên. Tất cả tuyệt chiêu, mánh mung được “sư phụ” tận tình chỉ
giáo cho “đệ tử”, và hẳn là lén lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha
truyền con nối. Vì vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa
lên tin mạng cho người viết tiện việc tra cứu.
Trong khi “ăn cắp” và “ăn trộm” mang nghĩa lén lút,
lặng lẽ, lấm lét, lạnh lùng lấy “cắp” và lấy “trộm” của người khác làm của
riêng, thì “ăn cướp” là dùng võ lực lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm,
súng đạn để tước đoạt cho bằng được.
Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Khổ cho dân mình quá! Nhưng không phải chỉ có khổ
không đâu, cũng có trường hợp dân chúng nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có
anh hùng Robin Hood, ở Tàu có “108 anh hùng Lương Sơn Bạc” là những anh hùng thổ
phỉ, cướp của người giàu, phân phát cho dân nghèo. Sướng không? Rủi thay, chỉ
sướng… ảo, vì các vị anh hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền
thoại. Thời nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng “vừa bị tuyên
án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người giàu’ bù
vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta làm việc.” Khi bị phát
giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh, rằng anh mắc phải “hội chứng Robin
Hood” (Robin Hood syndrome). Dù vậy luật sư vẫn không cứu vãn cho anh được trắng
án. Thì ra, ngoài “hội chứng ăn cắp”, danh từ khoa học là Kleptomania, còn có
thêm “hội chứng ăn cướp”! Biết đâu chừng, dám có cả “hội chứng ăn chực, ăn khín”
nữa, mà quý ông Sigmund Freud, Carl Gustav Jung chưa tìm ra!
Đàn bà, con gái khi trong nhà không có gì ăn, tối
tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên nghiệp. Người nào lỡ mang tiếng “gái
ăn sương”, không được ai thương hại, mà còn bị bêu rếu. Thời đại bây giờ, phụ nữ
không còn độc quyền hành nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu
niên nam nữ cũng nhảy vô cạnh tranh. Còn động từ “ăn đêm”, tôi nghĩ, không hẳn
đồng nghĩa với “ăn sương”, mà gần với “ăn khuya” hơn. Ngoài ra, còn được dùng để
chỉ “hành động đi kiếm mồi trong đêm tối” của muông thú, như trong bài đồng dao
ru con:
Con cò mày đi ăn
đêm,
đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống
ao…
Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn, người
miền Bắc nói “bắt nạt”, người miền Nam dùng động từ “ăn hiếp”. Chúng ta thường
nghe trẻ con hài tội lẫn nhau trong lớp học:
“Thưa cô, trò A ăn hiếp con, mượn con cục gôm, con
đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!”
Khi có kẻ thừa cơ “chôm” của, hoặc đợi anh hùng hảo
hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người Việt mình nói “ăn hôi”. “Ăn tàn” trong
thành ngữ “theo đóm, ăn tàn” cũng có nghĩa tương tự.
“Cái thằng đó là hạng người ‘theo đóm ăn tàn’, không
hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe nhục nhã lắm! Còn “ăn mót” nghe
lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng
có gì đáng hãnh diện. Ấy mà tục ngữ có câu:
Muốn ăn cơm ngon, lấy con nhà đi
mót.
Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà
bắt cua.
Câu đầu, người viết không
biết phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót lúa đem
về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời nên biết chọn ý trung
nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng?
Còn “ăn” trong “ăn quịt” nguyên thuỷ hẳn có nguồn
gốc “ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền”. Về sau được dùng chung cho mọi trường
hợp, khi tiền bạc không được thanh toán sòng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ
nhau:
“Chị coi chừng cái thằng cha
X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền rồi ăn
quịt.”
Còn chuyện “ăn chận” hay “ăn
chặn” có nghĩa “lấy bớt”. Những chuyện “ăn” nầy thường xảy ra trong “xã hội
đen”: Mấy tay đầu nậu, ma cô ma cạo “ăn chặn” tiền của băng đảng ăn xin, đĩ điếm
đứng đường. Hãy nghe chị Nguyễn thị X., ăn sương bất hợp pháp ở phố Tây ba-lô,
bị cảnh sát bắt quả tang, van nài: “Mấy ông tha cho tui lần nầy. Tại tui cần
tiền nuôi mẹ già con dại, chồng bại liệt, nên mới làm cái nghề nầy. Kiếm được
mười, bị thằng bảo kê ăn chặn mất bảy. Tui hứa, từ rày về sau sẽ làm ăn lương
thiện.”
Cũng là “ăn chận”, nhưng hợp
pháp, thường thấy trong thị trường mua bán bất động sản, gọi là “ăn huê hồng”
theo phần trăm, ký kết giao kèo đàng hoàng. Những người hành nghề nầy, theo ngôn
ngữ hậu hiện đại, được mang danh xưng “bác sĩ nhà đất”. Ông bác sĩ nầy không có
phòng mạch cũng chẳng chữa bệnh ai, mà chỉ lo kinh doanh chuyện nhà đất, hưởng
tiền hoa hồng. Những khi trúng mối, bán được nhà cho Việt kiều mệnh danh “triệu
phú chả giò” hay “tỷ phú bánh mì”, kiếm bộn bạc chứ chẳng chơi.
Khi “ăn” cặp kè với “vạ”, ngộ nghĩnh thay, “ăn” bay
mất nghĩa gốc. “Ăn vạ” là tiểu xảo thường thấy ở tâm lý lì lợm của trẻ con và…
cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền:
“Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn
ra ăn vạ, khóc lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!”
Hoặc:
“Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay vì được quả phạt đền,
lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.”
“Ăn” trong trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý
“cầu thắng, để đạt được mục đích” chăng?
Tản mạn thêm chuyện bài bạc. Tứ sắc là trò chơi bài
lá thông dụng ở miền Trung và miền Nam Việt nam. Người viết biết chơi bài nầy từ
nhỏ, được má, dì và bà ngoại chỉ vẽ vào những dịp Tết. Thông thường, tứ sắc gồm
bốn tay. Khi chơi có luật, nói theo “ngôn ngữ tứ sắc”, cấm “ăn sang sông”. Có
nghĩa đại khái, tay bài không được phép xé đôi trong bộ tướng-sĩ-tượng,
xe-pháo-mã hay bộ chốt để “ăn” bài trên tay của hai người ngồi bên phải đánh ra
hoặc kéo từ trong “nọc”, giành mất cơ hội của người khác. Như vậy, từ “ăn” trong
trường hợp này, có nghĩa là “giành lấy” (lá bài tứ sắc) về phần mình. Ai chơi
trái luật, bị bắt quả tang, sẽ bị phạt đền, bù tiền cho những người thua bàn
ấy.
Cũng chuyện đỏ đen, bài bạc. Vợ
chồng Năm Chuột là dân cờ gian bạc lận, sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày nào đi
làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi:
“Bữa nay ăn thua sao rồi?”
Không thoát đi đâu được, “ăn” ở đây đồng nghĩa với
“thắng”. Giống như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới
lúc thắng thua minh bạch mới thôi”:
“Tư Lùn là tay anh chị thuộc hạng dế ốc tiêu, vậy mà
gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao
ta!”
Hoặc trong “ăn gian”: Gian lận
để thắng. Nhưng nhiều khi còn được sử dụng thay cho “gian dối”:
“Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, lùn xịt 1 thước 55
thôi mà dám nổ, nói cao 1 thước 70!”
Chuyện nhỏ. Còn có người “ăn gian” trí thức nữa kia!
Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau:
“Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian
bằng cấp, đi du học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là
tiến sĩ, nghe có tức không?”
Khi ai
muốn dằn mặt, cảnh cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho “ăn” là
đủ:
“Nói cho mầy biết, chớ có đụng
vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức thì!”
Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ
nhàng như “tát”, “đấm”, “đá”, v.v… thì “ăn” có nghĩa “nhận lãnh, gánh lấy hậu
quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông một cái nhẹ
hều, đã bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn gì cũng thích, chỉ không hảo mấy
món “ăn đòn”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”, v.v… mà thôi.
Gặp trường hợp bà mai đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ
coi mặt, thòng theo câu nói:
“Tại
con nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, chú à!”
Hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té thùng đinh, mặt rỗ như tổ
ong, vậy mà tô son dặm phấn lên sân khấu, ăn đèn dễ sợ!”
Từ “ăn” trong những trưồng hợp này, bỗng dưng mất
bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp” với kỹ thuật chụp ảnh trong “ăn
ảnh”, hoặc với ánh đèn sân khấu trong “ăn đèn”.
Nghĩa cũng gần như vậy, người Việt nói “ăn nhịp”,
thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói
năng, hành động sao cho hợp lý, không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm,
trước khi về nhà, thằng anh thủ thỉ dặn dò thằng em:
“Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật bạn cho
ăn khớp, không thôi bả đánh nát đít!”
Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi đôi với tiếng… nước
ngoài, Việt ngữ có động từ “ăn rơ”, với “rơ” được phiên âm từ jeu (trò chơi,
cuộc chơi) của tiếng Pháp. “Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ
với nhau hết sức.” Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có
mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học, hoặc làm dáng trí
thức.
Phần trên có nhắc tới động từ
kép “ăn ở”, ngoài ý nghĩa “đời sống vợ chồng” còn hàm ý chỉ “cách xử thế, đối
đãi” với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột than thở cùng
chồng:
“Lúc nào vợ chồng mình cũng
ăn ở hiền lành, phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”
Nhưng khi người mẹ xẳng giọng với anh con trai đã
ngoài năm mươi vẫn còn độc thân:
“Mầy cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó cái nó lấy mầy
làm chồng.”
Hoặc khi cô con gái lắc
đầu nguây nguẩy:
“Con không ưng anh
ấy đâu, người gì mà ăn ở dơ dáy như heo!”
Nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành “thói ăn
nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì tới người
khác.
Thành ngữ Việt nam có vô số
câu liên quan tới “ăn”. “Ăn không”, tiếng miền Nam, cùng nghĩa với “ăn vã”,
tiếng miền Bắc, ý nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo cơm, cháo, v.v… Khi đi
chung với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi rồi”, có nghĩa “rỗi việc”, nhưng
không mấy tốt, gần như “vô tích sự”. Hãy nghe người vợ than thở:
“Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày
ảnh ăn không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!”
“Ăn xổi”, với trạng từ “xổi” (“qua loa, tàm tạm”,
thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng Bắc, đi chung với “ở thì” (“ở ngắn hạn,
nhất thời, có giai đoạn”), thành “ăn xổi ở thì”: nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với
ai đó một thời gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi
dụng, bạc tình bạc nghĩa.
Truyện
Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả buông lời ong bướm, ngôn ngữ hiện đại nói là
“thả dê”, đòi… ăn nằm, nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh
giác:
“Phải điều ăn xổi ở
thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một
ngày! ”
Rõ là nàng Kiều được Vương
ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo thì
thôi!
NẾP Ở
Bàn thêm chuyện ăn uống. Ở
miền Trung, miền Nam, những khi giỗ quải người ta thường làm bánh ít để cúng.
Bánh được làm bằng bột nếp, nhưn đậu hay dừa, gói bằng lá lùn và lá chuối, rồi
đem hấp. Nhưng cũng có loại bánh ít không lông không lá gì hết, mang tên bánh ít
trần. Cổ tích dân gian có truyện “Trần Minh khố chuối”. Nhân vật chính tên Trần
Minh, con nhà nghèo, nghèo mạt rệp, không có áo để mặc, phải xé lá chuối làm
khố. Viết tới đây, người viết băn khoăn, bật ra thắc mắc, không rõ cái họ Trần
trong tên Trần Minh có phải dùng ám chỉ người con trai tên Minh không mặc áo?
Người viết không dám võ đoán, chỉ biết chắc một điều, “ở trần” có nghĩa “không
mặc áo”. Còn “ở truồng” là “không mặc quần”. Ở Việt nam, trời nóng, đàn ông con
trai ở nhà thường “ở trần” cho mát. Còn phụ nữ, đôi khi có người đãng trí chín
mươi chín phần trăm, mặc áo dài, nhưng quên mặc quần, cũng gọi là “ở truồng”. Ai
đó, liều mình xếch-xy trăm phần trăm trước công chúng, gọi là “trần truồng”. Có
điều, chưa nghe ai nói “ở trần truồng” bao giờ!
Có chuyện tiếu lâm: Người múa được gọi là “vũ công”,
người dạy khiêu vũ là “vũ sư”. Còn cảnh hai người đàn bà nhào vô “ăn thua đủ”
trong màn đánh ghen gọi là gì? Câu trả lời hợp lý nhất: “Vũ
xếch-xy”.
Khi đứng trơ trọi một
mình, “ở” có nhiều nghĩa, và không phải chỉ đóng vai trò động từ: “Anh ở lại đây
với em tối nay nghen! Ở một mình, em sợ ma quá hà!”, mà cũng có thể là giới từ
chỉ định xuất xứ, vị trí: “Cô ấy ở quê mới lên, nên ưa đi chân không ở trong
nhà.”
Khi “ở” kết bạn với “đậu”,
“trọ” hoặc “ké”, có nghĩa “sống nhờ, sống cậy” vào người khác một khoảng thời
gian ngắn. Đi chung với “đợ”, hoặc với “người” thành “người ở”: “tới sống chung
để giúp việc nhà có lãnh lương”.
“Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con,
chờ kiếm ra chỗ ở đợ.”
Cố nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn có sáng tác bài hát tựa đề “Ở trọ”, nội dung không dính líu gì
tới mấy chuyện cậy nhờ đợ đậu vừa nói ở trên, mà hoàn toàn khác. Thử nghe lại
vài câu:
“Con chim ở đậu cành
tre
Con cá ở trọ trong khe nước
nguồn
Tôi nay ở trọ trần
gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối
trời …”
Hẳn là người nhạc sĩ muốn
mượn triết lý Phật giáo, ví von trần gian, còn gọi là cõi ta-bà theo ngôn ngữ
nhà Phật, là chỗ trọ của chúng sinh. Đời người ngắn ngủi như một sát-na, thoảng
qua như chớp mắt, tựa hồ quãng thời gian ở tạm trong chuỗi luân hồi dằng
dặc.
Với “ở vậy”, theo người viết,
có hai nghĩa: “ở vá”: độc thân, không lập gia đình (có tự điển ghi thêm, “vá”
cũng còn có nghĩa như “goá”). Hoặc, “ở goá”: sau khi vợ hoặc chồng chết, không
lấy người nào khác. V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những trường hợp nêu
trên, “ở” có nghĩa “hoàn cảnh gia đình”.
Ở trên có nhắc tới “ăn không”, với “ở” ta có “ở
không”: rảnh rỗi, không làm gì cả. “Nhân lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy
giấy viết tí toáy làm thơ tình gởi đăng nhật trình.” Tới đây, ta có thêm “ở cữ”:
hoàn cảnh, thời gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ.
Thời trước, thi sĩ trào phúng Tú Mỡ có làm bài thơ
tựa đề: “Sư cô ở cữ”.
“… Nhưng rồi
một sáng mùa thu,
Người ta thấy vị
ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống
cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng
khai hoa …”
“Ăn”
với “ở”, tóm lại, thường đi đôi với nhau như hình với bóng, như đũa có đôi, như
môi răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người viết xin
được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao “hậu hiện đại” tự biên tự
chế:
Ăn có đũa, ở có đôi.
Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.
Ở đâu lúc nào, một mình hay nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi trong bếp coi có cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay sau gì cũng phải kiếm thứ gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya. Vì vậy, trong kho tàng Việt ngữ có vô số động từ đôi đi chung với “ăn”. Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân tộc khác.
“Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn khín mà không biết mắc cỡ!”
Nhưng “ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực nằm chờ” lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề gì đó. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những làng quê xa xôi có việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp: Ăn để chực chờ tới lượt được vô hầu quan lớn.
Chuyện lớn chỉ thực sự xảy ra, khi “ăn” lỡ chung chạ với “nằm”. Thử nghe mẹ quát con gái:
“Hả, cái gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm, lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!”
Nhất định là phải có “ăn” vô đây thì “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và được dùng để ám chỉ những trường hợp chung chạ xác thịt không chính thức. Vợ chồng với nhau, không ai, hoặc không nên, nói “ăn nằm”, mà nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ:
“Vợ chồng mình ăn ở với nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ lòng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết ăn nói sao đây với con cái?”
Nghe thương xót biết mấy! Và, “ăn nói” trong tình huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây là lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình lớn một cách vô cùng khó hiểu.
Ca dao có câu:
Con ơi học lấy nghề cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Thì ra, không phải chỉ có nghề “ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ, “thu nhập” ngang ngửa ba năm làm. Nghe bắt ham!
Dĩ nhiên, đã là nghề thì phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi mẫn sau khi tốt nghiệp học đường “ăn mày”, và có chiến thuật tiến thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “cử nhân ăn trộm”. Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được bảng vàng ghi tên. Tất cả tuyệt chiêu, mánh mung được “sư phụ” tận tình chỉ giáo cho “đệ tử”, và hẳn là lén lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. Vì vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa lên tin mạng cho người viết tiện việc tra cứu.
Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Khổ cho dân mình quá! Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có “108 anh hùng Lương Sơn Bạc” là những anh hùng thổ phỉ, cướp của người giàu, phân phát cho dân nghèo. Sướng không? Rủi thay, chỉ sướng… ảo, vì các vị anh hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng “vừa bị tuyên án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta làm việc.” Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh, rằng anh mắc phải “hội chứng Robin Hood” (Robin Hood syndrome). Dù vậy luật sư vẫn không cứu vãn cho anh được trắng án. Thì ra, ngoài “hội chứng ăn cắp”, danh từ khoa học là Kleptomania, còn có thêm “hội chứng ăn cướp”! Biết đâu chừng, dám có cả “hội chứng ăn chực, ăn khín” nữa, mà quý ông Sigmund Freud, Carl Gustav Jung chưa tìm ra!
Con cò mày đi ăn đêm,
đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…
“Thưa cô, trò A ăn hiếp con, mượn con cục gôm, con đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!”
“Cái thằng đó là hạng người ‘theo đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe nhục nhã lắm! Còn “ăn mót” nghe lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng có gì đáng hãnh diện. Ấy mà tục ngữ có câu:
Muốn ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót.
Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà bắt cua.
Câu đầu, người viết không biết phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời nên biết chọn ý trung nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng?
“Chị coi chừng cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền rồi ăn quịt.”
Cũng là “ăn chận”, nhưng hợp pháp, thường thấy trong thị trường mua bán bất động sản, gọi là “ăn huê hồng” theo phần trăm, ký kết giao kèo đàng hoàng. Những người hành nghề nầy, theo ngôn ngữ hậu hiện đại, được mang danh xưng “bác sĩ nhà đất”. Ông bác sĩ nầy không có phòng mạch cũng chẳng chữa bệnh ai, mà chỉ lo kinh doanh chuyện nhà đất, hưởng tiền hoa hồng. Những khi trúng mối, bán được nhà cho Việt kiều mệnh danh “triệu phú chả giò” hay “tỷ phú bánh mì”, kiếm bộn bạc chứ chẳng chơi.
“Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn ra ăn vạ, khóc lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!”
Hoặc:
“Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay vì được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.”
“Ăn” trong trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý “cầu thắng, để đạt được mục đích” chăng?
Cũng chuyện đỏ đen, bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột là dân cờ gian bạc lận, sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi:
“Bữa nay ăn thua sao rồi?”
Không thoát đi đâu được, “ăn” ở đây đồng nghĩa với “thắng”. Giống như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới lúc thắng thua minh bạch mới thôi”:
“Tư Lùn là tay anh chị thuộc hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao ta!”
“Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, lùn xịt 1 thước 55 thôi mà dám nổ, nói cao 1 thước 70!”
Chuyện nhỏ. Còn có người “ăn gian” trí thức nữa kia! Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau:
“Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là tiến sĩ, nghe có tức không?”
“Nói cho mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức thì!”
Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như “tát”, “đấm”, “đá”, v.v… thì “ăn” có nghĩa “nhận lãnh, gánh lấy hậu quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông một cái nhẹ hều, đã bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn gì cũng thích, chỉ không hảo mấy món “ăn đòn”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”, v.v… mà thôi.
“Tại con nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, chú à!” Hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà tô son dặm phấn lên sân khấu, ăn đèn dễ sợ!”
Từ “ăn” trong những trưồng hợp này, bỗng dưng mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp” với kỹ thuật chụp ảnh trong “ăn ảnh”, hoặc với ánh đèn sân khấu trong “ăn đèn”.
Nghĩa cũng gần như vậy, người Việt nói “ăn nhịp”, thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lý, không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà, thằng anh thủ thỉ dặn dò thằng em:
“Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật bạn cho ăn khớp, không thôi bả đánh nát đít!”
“Lúc nào vợ chồng mình cũng ăn ở hiền lành, phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”
Nhưng khi người mẹ xẳng giọng với anh con trai đã ngoài năm mươi vẫn còn độc thân:
“Mầy cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó cái nó lấy mầy làm chồng.”
Hoặc khi cô con gái lắc đầu nguây nguẩy:
“Con không ưng anh ấy đâu, người gì mà ăn ở dơ dáy như heo!”
Nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành “thói ăn nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì tới người khác.
“Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!”
“Ăn xổi”, với trạng từ “xổi” (“qua loa, tàm tạm”, thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng Bắc, đi chung với “ở thì” (“ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn”), thành “ăn xổi ở thì”: nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi dụng, bạc tình bạc nghĩa.
Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả buông lời ong bướm, ngôn ngữ hiện đại nói là “thả dê”, đòi… ăn nằm, nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác:
“Phải điều ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày! ”
Rõ là nàng Kiều được Vương ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo thì thôi!
“Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con, chờ kiếm ra chỗ ở đợ.”
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có sáng tác bài hát tựa đề “Ở trọ”, nội dung không dính líu gì tới mấy chuyện cậy nhờ đợ đậu vừa nói ở trên, mà hoàn toàn khác. Thử nghe lại vài câu:
“Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời …”
Hẳn là người nhạc sĩ muốn mượn triết lý Phật giáo, ví von trần gian, còn gọi là cõi ta-bà theo ngôn ngữ nhà Phật, là chỗ trọ của chúng sinh. Đời người ngắn ngủi như một sát-na, thoảng qua như chớp mắt, tựa hồ quãng thời gian ở tạm trong chuỗi luân hồi dằng dặc.
Thời trước, thi sĩ trào phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: “Sư cô ở cữ”.
“… Nhưng rồi một sáng mùa thu,
Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa …”
Ăn có đũa, ở có đôi.
Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.