Phòng chống ung thư đại trực tràng ở người cao tuổi - Ảnh 1.
90% người mắc bệnh trên tuổi 50
Đại tràng (ruột già) và trực tràng (ruột cùng, ruột kết, ruột thẳng) là những bộ phận của ruột. Những bộ phận này giúp tống xuất những thành phần phế thải từ thức ăn. Giống như những bộ phận khác trong cơ thể, ruột già và ruột cùng được cấu tạo bởi những khối xây dựng tí hon được gọi là tế bào. Y như những viên gạch khối xây nhà, tế bào xây dựng lên cơ thể của con người. Nhưng đôi khi những tế bào mọc vượt quá tầm kiểm soát, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư. Ung thư bắt đầu ở ruột già hay ruột cùng thì gọi là ung thư đại trực tràng, đôi khi gọi là ung thư ruột già.
Ung thư đại tràng là bệnh ác tính bắt nguồn từ đại tràng. Tế bào của đại tràng bị đột biến thành tế bào ung thư. Các tế bào ung thư tăng sinh vô độ và hình thành u, gây tổn thương đại tràng. Các tế bào ung thư còn có khả năng di căn tới các cơ quan khác như hạch, màng bụng, gan, buồng trứng,…
Theo các bác sĩ chuyên khoa, người bệnh thường đến gặp bác sĩ khi bệnh ung thư đã ở giai đoạn cuối, thường là có các dấu hiệu lâm sàng đã biểu hiện 1 – 2 tháng, bệnh nhân thường chủ quan nghĩ đó là do nguyên nhân từ bệnh trĩ gây nên.
Ung thư đại trực tràng rất phổ biến. Có người nghĩ rằng chỉ có nam giới bị chứng ung thư đại trực tràng, tuy nhiên, nữ giới cũng bị chứng bệnh này. Cơ hội mắc bệnh tăng lên theo số tuổi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng 90% người bị bệnh là những người trên 50 tuổi, trung bình là 72 tuổi và có tới 70% bệnh nhân đến khám ở giai đoạn muộn.
Các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư đại trực tràng
Ung thư đại trực tràng liên quan chặt chẽ tới chế độ ăn nhiều thịt, mỡ động vật. Thực phẩm có nhiều mỡ, thịt động vật làm tăng lượng acid mật và làm thay đổi quần thể vi khuẩn trong đường ruột. Các vi khuẩn đường ruột sẽ biến đổi acid mật thành các chất độc có thể gây ung thư. Uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào và sử dụng các chất kích thích khác làm tăng khả năng mắc ung thư đại tràng.
Các loại thực phẩm có chứa chất gây ung thư như benzopyren trong thịt nướng, nitrosamin trong đồ hun khói, đồ muối… cũng có khả năng gây ung thư. Chế độ ăn ít chất xơ làm giảm khối lượng phân, kéo dài thời gian phân ở trong ruột, làm ruột phải tiếp xúc lâu với chất gây ung thư. Ngoài ra, chế độ ăn thiếu các Vitamin A, B, C, E, thiếu canxi làm tăng nguy cơ ung thư.
Những người cao tuổi có tiền sử mắc các bệnh về đại tràng như polyp đại tràng, viêm đại tràng mạn tính, bệnh Crohn… có nguy cơ cao mắc ung thư đại tràng. Polyp đại tràng nếu có nhiều và kích thước lớn, đặc biệt là polyp tuyến, khả năng cao đó là tổn thương tiền ung thư. Các tổn thương tiền ung thư có thể phát triển thành ung thư và cần được theo dõi sát sao. Những người đã được phẫu thuật nối niệu quản với đại tràng có nguy cơ bị ung thư ở miệng nối sau khoảng 25-30 năm phẫu thuật. Do phần đại tràng luôn phải tiếp xúc với phân và nước tiểu.
Lối sống ít vận động và cơ thể béo phì, hoặc người cao tuổi mắc các bệnh tiểu đường, có người thân bị mắc bệnh ung thư đại trực tràng, người bị viêm đại trực tràng nhiều năm… có nguy cơ bị ung thư cao hơn những người không mắc bệnh.
Kiểm tra sức khỏe định kì giúp phát hiện sớm bệnh tật, đặc biệt đối với ung thư đại trực tràng, điều này thực sự cần thiết cho việc điều trị đạt kết quả cao. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng về lợi ích của việc kiểm soát ung thư đại trực tràng.

 Có thể phát hiện ung thư đại trực tràng nhờ những xét nghiệm cơ bản, nội soi đại trực tràng. Một số các kĩ thuật chẩn đoán khác có thể hỗ trợ phát hiện polyp đường tiêu hóa bao gồm nội soi đại tràng sít-ma, chụp phim CT có bơm thuốc cản quang vào đại tràng, trực tràng…
Phương pháp điều trị và cách phòng tránh
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản đối với ung thư đại trực tràng. Hóa trị và xạ trị là phương pháp điều trị bổ sung, nhằm mục đích tăng cao kết quả điều trị cho nhiều bệnh nhân.
Phẫu thuật cắt bỏ phần ruột có khối u và những hạch lân cận thường thì các bác sĩ nối phần ruột lành còn lại với nhau. Nếu đoạn ruột còn lại không đủ nối với nhau thì phải dùng thủ thuật làm hậu môn nhân tạo.
Hóa trị bổ sung sau phẫu thuật được áp dụng cho bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng ở giai đoạn 2 và 3. Điều này giúp cải thiện so với việc chỉ áp dụng cho phẫu thuật đơn thuần. Theo các báo cáo cho thấy số bệnh nhân này đáp ứng với thuốc hóa trị khá tốt. Xạ trị là phương pháp điều trị cần thiết cho một số ca bệnh ung thư đại trực tràng, song cần phối hợp để kéo dài tình trạng bệnh.
Ung thư đại trực tràng là bệnh có tỷ lệ tỷ vong cao, tuy nhiên, đây là một trong những loại ung thư có khả năng chữa khỏi nếu được phát hiện sớm. Do đó, để phòng tránh bệnh hiệu quả, người cao tuổi cần khám sàng lọc định kỳ. Những người có nguy cơ mắc bệnh trung bình có thể bắt đầu khám sàng lọc ở tuổi 50. Những người có nguy cơ cao, chẳng hạn như những người có tiền sử gia đình bị bệnh này thì nên xem xét khám sàng lọc sớm hơn.
Mọi người cũng có thể giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng bằng cách thay đổi những thói quen hàng ngày như: Hạn chế ăn thịt, mỡ động vật và các loại thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm quay, nướng; ăn nhiều loại trái cây, rau củ để bổ sung vitamin, khoáng chất, chất xơ và chất chống oxy hóa. Những chất này có thể giúp phòng ngừa ung thư; hạn chế uống rượu và bỏ thuốc lá; cố gắng tập luyện thể dục thường xuyên để nâng cao sức khỏe và kiểm soát cân nặng.
Những lưu ý phòng bệnh

nội soi ruột
Để không mắc ung thư đại trực tràng, mỗi người có thể tự phòng tránh bằng cách: Thực hiện khẩu phần ăn ít mỡ, nhất là mỡ động vật, rượu, bia; tăng cường các loại thực phẩm nhiều chất xơ và giàu can-xi; tăng cường vận động, tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày; những người ngồi một chỗ hoặc béo phì dễ bị mắc bệnh ung thư đại trực tràng; người hút thuốc lá tử vong vì ung thư đại trực tràng nhiều hơn người không hút thuốc từ 30 – 40%. Với những người ngoài 50 tuổi, nhất thiết phải đi siêu âm, nội soi đại trực tràng để có những biện pháp ngăn chặn phòng bệnh chữa bệnh kịp thời nếu mầm bệnh xuất hiện.
Minh Trang/soha.vn