Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2018

Y khoa Phòng ngừa dành cho các vị cao niên


Trong vòng một thế kỷ qua, tuổi thọ trung bình kể từ lúc sinh ra của người sống tại Mỹ đã
 tăng lên đáng kể, từ 47 tuổi năm 1900, lên đến 77 tuổi năm 2004. Tính ra, vào năm 2030, 
người trên 65 tuổi sẽ chiếm hơn 20% dân số, tức khoảng 70 triệu người.

Hệ thống duy trì sức khỏe cho các vị cao niên tại Mỹ tốt, nhờ vào các phương cách y
 khoa phòng ngừa. Việc ngừa bệnh và tăng cường sức khỏe tại Mỹ hiện được chia làm
 ba cách: primary prevention (phòng ngừa tiên khởi, phòng ngừa thứ nhất), secondary 
prevention (phòng ngừa thứ nhì) và tertiary prevention (phòng ngừa thứ ba).

Phòng ngừa tiên khởi nhắm mục đích ngừa đừng để bệnh xảy ra trong tương lai; phòng
 ngừa thứ nhì nhắm mục đích tìm và chữa bệnh sớm trong giai đoạn bệnh chưa gây 
triệu chứng; phòng ngừa thứ ba nhận định tình trạng sức khỏe hiện tại của người bệnh,
 tìm các phương cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an toàn hơn.

Phòng ngừa tiên khởi
 Các vị cao niên nên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày một tuần; bỏ ngay 
thuốc lá nếu đang hút; bớt uống rượu nếu có uống rượu nhiều. Thể dục thường xuyên giúp
 chúng ta tăng cường sức khỏe; giảm thiểu nguy cơ bị các bệnh tim mạch, tai biến mạch máu
 não, cao áp huyết, tiểu đường, rỗng xương, béo mập, ung thư ruột già, ung thư vú, căng 
thẳng tinh thần (anxiety), buồn chán (depression) , lẫn; giúp bớt té ngã, như vậy, ngừa 
những chấn thương do sự té ngã; khiến chúng ta sinh hoạt trong đời sống hàng ngày 
khá hơn; và cũng là cách trị liệu hữu hiệu trong nhiều trường hợp bệnh, như các rối loạn 
tinh thần khiến chúng ta lúc buồn lúc vui (mood disorders), lẫn, đau nhức kinh niên, suy
tim, tai biến mạch máu não, bón, khó ngủ.

Aspirin nên được dùng cho những vị mang nguy cơ có thể sẽ bị bệnh tim mạch trong vòng 
5 năm tới (nguy cơ >3% so với người thường), chẳng hạn như những người có bệnh tiểu 
đường. Tuy nhiên, chúng ta cẩn thận khi dùng aspirin vì aspirin có thể gây chảy máu đường
 tiêu hóa, nhất là cho các vị trên 75 tuổi, các vị có bệnh loét bao tử hoặc từng chảy máu 
đường tiêu hóa trong quá khứ, các vị đang uống những thuốc warfarin, steroid.

Cứ mỗi 10 năm, chúng ta chích ngừa phong đòn gánh (tetanus), để lỡ có đứt tay trầy chân, 
chúng ta yên tâm sẽ không bị phong đòn gánh, một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm có thể gây
 tử vong. Thuốc thường được pha chung với thuốc ngừa bệnh bạch hầu (diptheria, một 
bệnh nhiễm trùng nguy hiểm tạo những màng trắng ở họng), nên được gọi là thuốc chích
 ngừa Td (tetanus- diptheria vaccine).
Hàng năm, các vị cao niên 65 tuổi trở lên nên chích ngừa cúm khoảng tháng 10, 11, trước
 khi cúm đến vào mùa Đông. Người dưới 65 tuổi song đang mang các bệnh tim, phổi, 
hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng của cơ thể suy giảm, cũng nên 
chích ngừa cúm.

Các vị cao niên 65 tuổi trở lên cần chích ngừa bệnh sưng phổi pneumococcus, chỉ cần một
 lần trong đời. Giống ngừa cúm, người dưới 65 tuổi song đang mang các bệnh tim, phổi, 
hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng của cơ thể suy giảm, cũng nên 
chích ngừa sưng phổi pneumococcus.
Gần đây, có thuốc chích Zostavax ngừa bệnh shingles (một bệnh do siêu vi, gây đau đớn, 
có khi rất dữ, nhất là cho người lớn tuổi, Việt Nam ta hay gọi nôm na là “bệnh giời ăn”), các
 vị 60 tuổi trở lên nên chích thuốc Zostavax ngừa bệnh này.

Phòng ngừa thứ nhì
 Phòng ngừa thứ nhì (secondary prevention) gồm việc truy tìm các ung thư ruột già, vú,
 tiền liệt  tuyến, cổ tử cung; đo áp huyết định kỳ; thử máu xem có cao các chất mỡ trong máu;
 truy tìm bệnh rỗng xương; truy tìm bệnh phình nở động mạch aorta trong bụng 
(abdominal aortic aneurysm).

50 tuổi trở lên, cả đàn ông lẫn phụ nữ, chúng ta nên truy tìm ung thư ruột già, dù không
 có triệu chứng gì cả. Phương pháp truy tìm ung thư ruột già tốt nhất là soi toàn
 ruột già (colonoscopy) , nếu bình thường, 10 năm chúng ta sẽ soi lại.

Nguy cơ bị ung thư tiền liêt tuyến tăng sau tuổi 50. Tiếc thay, hiện vẫn chưa có phương pháp
 truy tìm ung thư tiền lêt tuyến thực chính xác. Từ 50 tuổi trở lên, đàn ông chúng ta nên
 nhờ bác sĩ thăm khám nhiếp hộ tuyến hàng năm, và thảo luận với bác sĩ có nên thử PSA 
hay không. [Thường chất PSA trong máu tăng cao khi có ung thư tiền liệt tuyến, nhưng
 có nhiều trường hợp thử thấy PSA tăng cao, khi đâm kim lấy mô tiền liệt tuyến xem dưới
kính hiển vi (biopsy), không thấy có ung thư, ngược lại, cũng có trường hợp ung thư, 
song PSA lại không cao nhiều, nên phương pháp truy tìm ung thư này không thực chính xác
 lắm, việc có nên thử PSA hay không sẽ tùy vào ý muốn của bạn, sau khi nghe lời giải thích
 của bác sĩ.]

Ung thư vú tăng cao nhiều sau tuổi 50. Từ tuổi 40 trở đi, phụ nữ nên đi khám vú hàng năm,
 và chụp phim vú mỗi 1-2 năm. Đến tuổi 50 trở đi, vẫn đến bác sĩ khám vú hàng năm, và mỗ
i năm nên chụp phim vú.

Việc làm Pap smear để truy tìm ung thư cổ tử cung cần được tiếp tục cho đến khi quá tuổi
 65-70 mới ngưng, nếu ít nhất 3 lần làm Pap smear trong vòng 10 năm trước đó hoàn 
toàn bình thường.
Cao áp huyết xảy ra rất nhiều ở người có tuổi, đưa đến các biến chứng tim mạch như chết 
cơ tim cấp tính (heart attack), tai biến mạch máu não (stroke). 1-2 năm, chúng ta nên đến 
nhờ bác sĩ đo hộ áp huyết, để nếu có cao áp huyết còn sớm chữa.

Bệnh rỗng xương nhiều ở phụ nữ đã mãn kinh. Phụ nữ 65 tuổi trở lên nên chụp phim truy
 tìm rỗng xương. Phụ nữ trước tuổi 65, đã mãn kinh, tùy trường hợp, bác sĩ sẽ khuyên chụp 
phim hay không.
Đàn ông hút thuốc lá có thể bị phình nở động máu aorta trong bụng (abdominal aortic 
aneurysm), nếu bể vỡ dễ gây tử vong. Đàn ông 65-75 tuổi hút thuốc lá hay từng hút trong
 quá khứ, hoặc có anh, em bị bệnh phình nở động máu aorta trong bụng, nên làm siêu âm
 bụng một lần để truy tìm bệnh phình nở động máu aorta.

Phòng ngừa thứ ba
 Phòng ngừa thứ ba (tertiary prevention) nhận định hiện trạng sức khỏe của người bệnh,
 và tìm các phương cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an toàn hơn. Ở các vị cao 
niên, phòng ngừa thứ ba gồm những việc bác sĩ nhận định sức khỏe tổng quát của các vị, 
những hoạt động để chăm sóc cho chính bản thân hàng ngày (tắm rửa, ăn uống, …), rồi về
 mặt trí óc, tri thức có sáng suốt không, về mặt tinh thần, có dấu chứng buồn chán 
(depression) không.
Về mắt, các vị cao niên nên được khám bởi bác sĩ chuyên khoa Mắt mỗi 1-2 năm, truy tìm 
những bệnh quan trọng như cao áp suất mắt (glaucoma). Về tai, bác sĩ cũng nên để ý xem
 tai vị cao niên có nghe kém không.

Về dinh dưỡng, các vị cao niên cần một thực phẩm đầy đủ những chất cần cho cơ thể. 
Các vị cần ít nhất 1200 mg calcium, 800 đơn vị sinh tố D mỗi ngày. Hàng ngày, thuốc 
đa sinh tố (multivitamins) cũng rất tốt, ngừa một số bệnh kinh niên có thể xảy ra do thiếu
 sinh tố. Nếu vị cao niên nào xuống cân, 10% hay hơn sức nặng trong vòng 1 năm qua, bác
 sĩ cần lưu ý và tìm hiểu tại sao.

Hàng năm, có khoảng 30% người cao niên té ngã, tỉ lệ này tăng lên 50% ở các vị trên 80 tuổi.
 Té ngã có thể đưa đến gãy xương hoặc phải vào nhà thương, nên các phương cách giúp
 tránh té ngã cũng là những phòng ngừa quan trọng ở các vị cao niên. Các yếu tố khiến 
dễ té ngã gồm những thay đổi vóc dáng, cách đi đứng do tuổi tác, mắt kém, tri thức không 
sáng suốt, bệnh ảnh hưởng đến sức mạnh và sự phối hợp của các bắp thịt, các yếu tố 
môi trường (sàn nhà trơn trượt, thảm trải sàn không được chắc, đèn không đủ sáng, giầy 
dép không vừa chân, lỏng lẻo, vân vân), thuốc dùng. Riêng về thuốc, càng dùng nhiều thuốc,
 càng dễ có phản ứng phụ của thuốc và té ngã, bác sĩ nên thường xuyên nhận định thuốc
 nào vị cao niên còn cần, thuốc nào không cần nữa nên bỏ. (Khi đi khám bệnh, chúng ta
 nên luôn mang thuốc theo, và cho bác sĩ biết thuốc nào còn cần, thuốc nào không thấy cần 
nữa.)

Ngoài ra, những việc khác như tiểu són, còn lái xe được không, ở nhà có bị con cái hất 
hủi bỏ bê không, vân vân, bác sĩ cũng cần để ý thăm hỏi, giúp các vị cao niên giải quyết vấn 
đề.
Sức khỏe còn quí hơn vàng. Chúng ta may mắn sống trên đất Mỹ, nơi có nền y khoa tốt. 
Hiểu biết về các phương cách ngừa bệnh và duy trì sức khỏe ở đây,giúp chúng ta
sống khỏe mạnh và an toàn 
                                                                    xxxx

Uống thuốc vơí nước gì tốt nhất
Đối với nhiều người, uống thuốc với bất cứ nước gì có vẻ không quan trọng, thậm chí có 
người lựa chọn hẳn một loại nước có mùi vị thích hợp, nhằm loại trừ cảm giác khó chịu do 
dùng thuốc. Như có người uống thuốc với nước trà  hoặc với nước trái cây (nước cam, nước
 chanh…) , thậm chí với bia rượu l

Điều  kể trên  thật ra có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị của thuốc, vì nếu
 dùng loại nước không thích hợp sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc ở hệ tiêu hóa,
 đưa đến thuốc bị giảm tác dụng hay không còn tác dụng điều trị.
*Nước gì tốt nhất?
Nước lã đun sôi để nguội hoặc nước lọc hợp vệ sinh là loại nước tốt nhất dùng để uống 
thuốc. Uống thuốc với loại nước này với lượng nước đủ sẽ giúp đưa thuốc viên (viên nén 
hoặc viên nang) từ miệng xuống nhanh đến dạ dày, tan rã và hòa tan tạo dung dịch thuốc, 
sau đó trôi xuống ruột là vị trí dược chất sẽ hấp thu vào máu cho tác dụng.

Đối với thuốc là viên nang hay còn gọi là viên nhộng là dạng dễ nuốt, một số người uống 
khan, không uống chung với nước (đặc biệt là người cao tuổi do rối loạn tiểu tiện thường 
đi tiểu lắt nhắt rất ngại uống nước), viên nang uống khan có thể dính lại ở thực quản gây
 viêm loét thực quản rất tai hại. Vì vậy, uống thuốc với lượng nước đủ là cần thiết, thậm chí
 có một số thuốc đòi hỏi phải uống nước thật nhiều (như thuốc chứa dược chất sulfamid)
 để thuốc được lọc, bài tiết nhiều theo nước tiểu không gây đóng sỏi hại thận.
Có thể dùng nước đóng chai nhưng phải là nước tinh khiết chứ không nên dùng nước chứa
 các chất khoáng (còn gọi nước suối) để uống thuốc, bởi vì chất khoáng như: canxi, natri
… có thể tương kỵ gây ảnh hưởng đến thuốc.
*Các loại nước không nên dùng?
Tùy trường hợp, có loại nước hoàn toàn không thích hợp vì nếu uống với thuốc sẽ làm mất
 tác dụng của thuốc hay gây hại đối với cơ thể, cụ thể như sau:

Sữa: trong sữa có chứa canxi có thể kết hợp với một số kháng sinh (như tetracyclin) tạo
 thành phức hợp không tan, làm kháng sinh không hấp thu được vào máu để cho tác dụng.
 Tuy nhiên, vẫn có trường hợp thuốc nên uống chung với sữa. Như dùng thuốc gây bào
 bọt dạ dày (aspirin), hay dễ nôn ói (thuốc ngừa thai phải uống hàng ngày dễ gây buồn nôn
 ở một số phụ nữ), hay cần chất béo để thuốc dễ hấp thu (vitamin A, vitamin D) thì cần
 uống chung với sữa. Như vậy, để lựa chọn đúng thức uống uống với thuốc nên hỏi bác sĩ 
hay dược sĩ để được tư vấn.

Cà phê, trà, nước giải khát có ga: trong các loại nước này, đặc biệt nước ngọt, nước tăng 
lực đều có chứa caffein (là chất kích thích giúp tỉnh táo) sẽ kết hợp với thuốc bổ chứa sắt,
 tạo thành chất kết tủa không hấp thu được. Ngoài ra, caffein còn làm giảm tác dụng các
 thuốc được dùng nhằm an thần gây ngủ nếu uống cùng lúc.

Nước ép trái cây: nhiều loại nước ép trái cây hiện nay đã được chứng minh là gây hại nếu 
uống chung với thuốc. Nước cam, nước táo dùng uống thuốc có thể làm giảm sự hấp 
thu một số thuốc, do làm chất sinh học ở ruột đảm nhận việc chuyển vận thuốc vào máu 
không hoạt động được. Nghiêm trọng nhất là nước bưởi chùm (grape-fruit, là loại bưởi
 dùng nhiều ở phương Tây, nhưng thận trọng cũng nên lưu ý cả nước bưởi trồng ở ta).
 Khi uống chung với một số thuốc (như thuốc statin trị rối loạn lipid huyết, thuốc atenolol trị
 tăng huyết áp…) nước bưởi chùm sẽ làm tăng độc tính của thuốc, do ức chế men chuyển
 hóa thuốc ở gan, làm tăng nồng độ thuốc quá đáng ở trong máu.

Bia rượu: đây là loại thức uống không nên uống chung với thuốc. Rượu làm tăng độc tính hại
 gan của paracetamol, tăng độc tính hại dạ dày của aspirin, tăng độc tính gây mê của thuốc
 an thần gây ngủ. Riêng với kháng sinh như: metronidazol, các cephalosporin… nếu uống 
chung với rượu bia sẽ gây phản ứng antabuse gây vật vã, hạ huyết áp rất khó chịu làm 
người dùng thuốc cứ tưởng sắp chết đến nơi.
Trong thời gian dùng bất cứ loại thuốc nào, an toàn hơn hết là kiêng hẳn, không nên uống 
rượu bia.

Dược sĩ Nguyễn Hữu Đức/nguoiphuong nam 11/2017