Hiện nay toàn thế giới có 497,5 triệu người mắc bệnh thận mãn tính và mỗi năm có thêm khoảng 250.000 bệnh nhân mới. Bệnh thận mãn tính là nguy cơ chủ yếu cho bệnh thận giai đoạn cuối, tim mạch và tử vong sớm. Chi phí chăm sóc cho bệnh nhân thân mãn tính giai đoạn cuối là một con số khổng lồ. Để tránh bệnh diễn tiến đến giai đoạn cuối, giảm chi phí cho việc lọc máu, một trong những biện pháp cần đến là chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Cụ thể, chế độ ăn đúng sẽ giúp bệnh nhân tránh suy dinh dưỡng, giảm quá tải cho thận suy để bảo tồn chức năng thận còn lại, đủ năng lượng cho hoạt động hàng ngày và kiểm soát đường huyết. Đặc biệt dinh dưỡng hợp lý còn giúp giảm triệu chứng bệnh như buồn nôn, ngứa, chán ăn; duy trì cân nặng tốt, tránh mất khối lượng cơ; ngừa nhiễm trùng; kiểm soát tạo chất thải từ thức ăn.
Thiết lập chế độ dinh dưỡng tốt sẽ giúp làm ngừng hoặc chậm sự tiến triển suy thận mãn tính; ngăn ngừa hoặc làm giảm chất độc do urê trong máu cao, chậm quá trình xơ hóa cầu thận, kéo dài thời gian cần lọc máu
Bốn nguyên tắc cho chế độ ăn của bệnh nhân khi điều trị bệnh thận mãn tính là:
ít đạm, dùng protein có giá trị sinh học cao, đủ acid amin thiết yếu;
giàu năng lượng để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng;
đủ vitamin, yếu tố vi lượng, chống thiếu máu;
cân bằng nước - muối, đủ canxi, ít phosphat.
Hướng dẫn cụ thể, lượng chất đạm trung bình ăn vào mỗi ngày duy trì ở mức 0,3-0,6g/kg cân nặng kết hợp cùng keto acid, thay đổi tùy thuộc mức độ suy thận. Lý do hạn chế chất đạm là vì khi ăn nhiều dẫn đến sản sinh urê, urê tích tụ lại cơ thể khi suy thận, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực.
Việc ăn ít protein luôn phải đi kèm đáp ứng nhu cầu về năng lượng mỗi ngày để tránh việc thiếu hụt acid amin và giữ thể trạng tốt cho bệnh nhân. Trung bình mỗi người cần ăn đủ 35-40kcal/kg cân nặng mỗi ngày. Tỷ trọng cung cấp năng lượng: chất béo chiếm 30-40% và chất bột đường 60-70%. Theo tài liệu 1g đường bột cho 4kcal, 1g protein đem đến 4kcal và 1g chất béo cung cấp 9 kcal.
Bảng thành phần protein, calo có trong một số thực phẩm.
|
Mỗi ngày lượng nước bệnh nhân cần uống vào sẽ bằng lượng nước tiểu thải ra cộng thêm 500ml. Còn nhu cầu muối khoáng được tính toán qua các chỉ số: natri, kali, phosphat.
Khẩu phần ăn mỗi ngày cần hạn chế gia vị muối vì chúng chứa nhiều natri, lượng natri nạp vào giới hạn trong 1-3g/ngày. Tương tự, bệnh nhân chỉ được ăn 40-70mEq kali mỗi ngày vì kali ứ đọng lại ở những người suy thận. Bệnh tăng kali máu xảy ra khi nồng độ kali hơn 5,5mEq/lít và nếu con số này lên đến hơn 6,5mEq/lít có thể gây ngưng tim đột ngột, tử vong bất kỳ lúc nào mà không có triệu chứng báo trước.
Thức ăn chứa nhiều kali là cam, chuối, nho, đào, bưởi, dâu, dừa...; hạt khô như đậu phộng, hạt điều, hạt dẻ, chocolate, cà phê sữa... Trái cây ít kali có thể ăn được là lê, dưa hấu. Rau tươi có nhiều kali nên nếu ăn, bệnh nhân cần đun nấu 2-3 lần và bỏ nước luộc rau.
Bệnh nhân chỉ được ăn 4-12mg phosphat mỗi ngày. Chất này có nhiều trong hầu hết thực phẩm chứa đạm, đặc biệt là sữa, phô mai, cua, lòng đỏ trứng, thịt thú rừng, gan, trái cây khô, vitamin...
Tuy vậy chế độ ăn của bệnh nhân cần phụ thuộc vào tuổi, tiền sử bệnh, chức năng thận, hoạt động thể lực... Tùy theo mỗi giai đoạn bệnh, bệnh nhân sẽ có chế độ ăn khác nhau. Bệnh nhân cần lưu ý các loại thức ăn không bắt buộc phải cấm tuyệt đối, nếu có nhầm lẫn khi lên thực đơn cần đến ngay bác sĩ để được tư vấn và can thiệp kịp thời, thay vì hoảng sợ, lo lắng.
Hoài Nhơn/vnexpress