Thận của nhiều bệnh
nhân tiểu đường dày thêm từ từ với thời gian và trở thành dần dần có sẹo. Các
ống sinh niệu (nephron) --những đơn vị chức năng và cấu trức cơ bản của
thận--trở thành rò rỉ và để cho albumin thoát theo nước tiểu ra ngoài (albumin
là một protein do gan sản xuất).Sự tổn thương của thận có thể kéo dài nhiều năm
trước khi bệnh nhân thấy có triệu chứng và mất khả năng lọc máu, kiễm soát sự
quân bình dịch chất của cơ thể và loại bỏ các chất thải
Sơ đồ hoạt động của thận
Theo đinh nghĩa, bệnh
thận do tiểu đường (diabetic nephropathy-DN) điển hình là bệnh đa albumin-niệu
(macroalbuminuria) và bệnh chức năng thận khác thường (abnormal kidney
function).
Được coi như bị bệnh đa albumin-niệu nếu albumin bài tiết theo nước
tiểu vượt quá 300mg trong thời gian 24 tiếng.
Chức năng thận được coi là khác
thường trong những trường hợp mà creatinine trong huyết thanh (serum
creatinine) và tỉ lệ lọc tiểu cầu (glomerular filtration rate- GFR) bất bình
thường
Bệnh thận do tiểu
đường (DN) được coi như là xẩy ra khi mà
bệnh nhân chỉ bị bệnh đa albumin-niệu không thôi hoặc bị cả đa albumin niệu lẫn chức
năng thận khác thường.
Các chỉ dấu của bệnh DN gồm có lượng albumin trong
nước tiểu tăng cùng với tỉ lệ GFR giảm và huyết áp cao với rủi ro gia tăng bị bệnh
trạng tim mạch và tử vong
Nguyên nhân bệnh thận do
tiểu đường (DN)
Nguyên nhân
chính xác gây ra bệnh DN hãy còn chưa được rõ, nhưng có nhiều giả thiết về cơ
chế đã được đưa ra. Đó là: sự tăng glucoz
huyết (hyperglycemia), các sản phẩm do sự liên kết đồng hóa trị giữa một phân tử
lipid với một phân tử đường (glycation products),và sự kích hoạt các cytokine
khuyến khích viêm toàn thân (pro-inflammatory cytokines).
Một số nghiên cứu cho
rằng sự kiểm soát không tốt glucoz-huyết (glucemic control) và sự tăng
glucoz-huyết (hyperglycemia) gây ra sự siêu-lọc (hyper filtration) và gây tổn
thương cho thận. Hơn thế nữa, các yếu tố di truyền và/hoặc gia đình có thể cũng
giữ một vai trò nào đó. Quan sát cho thấy các người Mỹ gốc Phi châu, các người
Mễ và các ngưởi Mỹ da đỏ bản địa có rủi
ro cao bị bệnh DN. Tổn thương thận cũng thường hay xẩy ra hơn cho những người
hút thuốc, có huyết áp cao và đã bị bệnh tiểu đường loại 1 trước tuổi 20
Sinh lý bệnh
học của bệnh thận do tiều đường
Vào giai đoạn đầu của
bệnh tiều đường có sự siêu-lọc tiểu cầu (glomerular hyper-filtration) dẫn đến
sự gia tăng GFR, điều này được cho là do
trung gian của sự tăng glucoz-huyết (hyperglycemia). Sự kiện này có thể có liên
quan tới sự bành trường của màng nâng cuộn mao mạch (mesangial expansion) của
thận và sư tăng gia mức tăng trưởng của
các tế bào thận với sự giúp đỡ của các cytokine, chẳng hạn như yếu tố transforming growth factor B
(TGF-B). Yếu tố TGF-B này đăc biệt quan trọng đối với sự bành trướng
(expansion) và sau đó sự xơ-hóa (fibrosis).
Thêm vào đó, glucoz liên kết đảo nghịch và không đảo nghịch với một số
protein trong cả thận và tuần hoản (circulation) để tạo nên những sản phẩm cuối
gọi là AGEs ( advanced glycosylation end products). Chính các AGEs này góp phần
vào việc gây tổn thương cho thận khi chúng tạo ra những phức hợp (complexes) có
thể kích thích sư tăng trưởng và sư xơ hóa.
Cao huyết áp (hypertension)
cũng được cho là giữ vai trò trong bệnh thận do tiểu đường (DN) bởi vì thông số
này khi được kiểm soát làm chậm sự tiến triển của bệnh tiểu đưởng ra thành bệnh
DN. Các nghiên cứu trên động vật nhấn mạnh vào sự quan trọng của yếu tố này vì
cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa tình trạng nặng nhẹ của DN với huyết áp
toàn thân (systemic blood pressure) của động vật. Cao huyết áp--được biết có
thể gây tổn thượng nội mô (endothelial injury) và làm rối loạn sự điều hòa huyết áp ở mức độ thận--- là một yếu tố góp phần cho DN
Ở những người bị tiểu
đường loại 1, trước tiên vi-mô albumin-niệu
(microalbuminurea) xẩy ra vào lúc 5 tuổi, tiếp theo sau là DN và vĩ -mô
albumin-niệu (macroalbuminurea) khoảng một thập niên sau. Phân nửa các bệnh nhân
này triển khai bệnh thận giai đoạn chót (end-stage renal disease-ESRD) trong
vòng thời gian từ 10 tới 15 năm kể từ khi vi-mô albumin-niệu microalbuminurea) xuất
hiện
Trái lại, cứ mỗi 10 người bị tiểu đường
loại 2 nếu không được chữa trị thì có 3 người có thể phát triển bệnh DN. Sau khoảng hai thập niên sau khi bị bệnh thận
thì 20 phần trăm nhũng người này có thễ triển khai thành bệnh thận giai đoạn
chót (ESRD). Tuy rằng tỉ lệ những người bị tiểu đưởng loại 2 chuyển thành ESRD ít hơn so với những
người bị tiểu đường loại 1 , nhưng số người bị tiểu đường loại 2 cần phải
lọc thận (dialysis) lại cao hơn so những người bi tiểu đưởng loại 1 là bởi vì bệnh
tiễu đường loại 2 thông thường hơn loại 1
Nguyên tắc 2 phượng pháp lọc thận
What causes Diabetic Nephropathy (Kidney Disease)?-Jonas Wilson-
9/24/2016
-----------------------------------------------------------------------------------------
Bài đọc thêm vể bệnh thận
Nguyên nhân
Triệu chứng
Chẩn đoán
Trị liệu
Phòng ngừa