Tạ ơn (Thanksgiving) là
một hành vi biểu hiện lòng biết ơn đối với những ân phước của
Trời Đất, Thượng Đế, hay các vị thần linh. Từ ngàn xưa, người
ta tin tưởng các vị thần linh đã làm cho mưa thuận, gió hòa,
khiến mùa màng được tốt, gia súc sinh sản nhiều, và nhờ đó cuộc
sống được no đủ.
Tại
Hoa Kỳ, Tổng Thống George Washington lúc lên cầm quyền đã chọn
ngày 26 tháng 11, năm 1789 là ngày Lễ Tạ Ơn chung cho toàn quốc.
Sau đó thì mỗi tiểu bang có một ngày Lễ Tạ Ơn riêng. Đến năm
1863, TT. Lincoln chọn ngày Thứ Năm chót của tháng 11 là ngày Lễ
Tạ Ơn chung cho toàn quốc cả Nam lẫn Bắc. Tới năm 1939, TT
Roosevelt ấn định lại ngày Lễ Tạ Ơn cũng vào ngày Thứ Năm tháng
11, nhưng sớm hơn một tuần. Năm 1942, Quốc Hội quyết định ngày
Lễ Tạ Ơn trở lại ngày cũ của TT Lincoln.
Tuy
nhiên ngày Lễ Tạ Ơn đầu tiên trên Mỹ Châu đã được tổ chức vào
Tháng Mười Một năm 1621 tại Plymouth, Massachusetts nhằm tỏ lòng
biết ơn nhóm thổ dân da đỏ và đặc biệt là với một thổ dân có
tên là Tisquanto gọi tắt là Squanto.
Câu
chuyện truy nguyên từ những năm tháng đầy gian truân
của nhóm 102 người Anh di cư gọi là Pilgrims Fathers gồm cả 35
người nguyên thuộc Tin Lành cải cách ly khai (Puritan
separatists), trước đó đã định cư tại Leyden, Hòa Lan
(Netherlands) lìa quê hương Anh Quốc, khởi hành trong tháng
Chín, 1620 từ Plymouth, England, vượt 3000 dặm Đại Tây Dương
trên con tầu Mayflower hướng về Tân Thế Giới (Mỹ Châu La Tinh)
cho tự do tín ngưỡng của họ.
Mới đầu tầu Mayflower định đi tới Jamestown, Virginia, nơi định cư đầu tiên
của di dân (1607). Nhưng vì bão tố liên tục, họ đành phải đổ bộ
tại Cape Cod Bay và quyết định lập nghiệp tại Plymouth,
Massachusetts đồng thời tự tuyên bố là không còn thuộc quyền
kiểm soát của Anh Quốc. Ngày 21 tháng 11 năm 1620, trước khi lên
bờ, 41 Pilgrim Fathers đã ký vào Bản Kết Ước Mayflower thành
lập một tổ chức chính trị dân sự và dựng nên một khung cho những
luật lệ công bằng và bình đẳng. Bản kết ước trở nên nền tảng của chính
quyền tại Plymouth và họ đã chọn William Bradford (1590 – 1657)
làm Thống Đốc đầu tiên của họ và đã tái cử tới 30 lần kể
từ 1621.
Đoàn
người này đã phải chịu đựng một mùa đông trong đói lạnh và phân
nữa đã chết. Trong tình trạng khốn cùng đó, như một
phép lạ, một thổ dân da đỏ nói thông thạo tiếng Anh đã dẫn một
số thổ dân khác cùng mang bí rợ và thịt gà tây tới giúp đồng thời
cũng chỉ cho di dân cách trồng trọt và bắt cá. Vị cứu tinh đó tên là
Tisquanto mà di dân gọi tắt là Squanto.
Năm 1605, Squanto cùng với 4 thổ dân khác được thuyền trưởng Anh – George Waymouth chở về Anh Quốc. Squanto và
hai thổ dân được giao cho Sir Ferdinando để học tiếng Anh. Năm
1614, Squanto được phái theo thuyền trưởng John Smith trở lại
Tân Thế Giới làm thông ngôn. Sau đó thì Squanto bị bắt cóc và
bán làm nô lệ. Rồi Squanto được các thủy thủ giúp vượt thoát
trở về Anh, được làm hoa tiêu trở lại Tân Thế Giới, và
đã có cơ hội dẫn thổ dân tới cứu nhóm Pilgrims ở Plymouth. Sự
kiện Squanto tận tình cứu giúp người da trắng cũng làm cho thổ dân căm
giận đòi nhóm Pilgrims trao Squanto cho họ để trừng phạt.
Nhưng
di dân Anh đã hết sức bảo vệ Squanto và chính Squanto cũng đứng
về phía nhóm Pilgrims cho đến khi chết vì bịnh sốt rét trong
một cuộc chuyến đi trao đổi với nhóm Pilgrims vào tháng 11 năm
1622. Khi chết, Squanto đã trăng trối với Braford rằng ông hãy
cầu nguyện cho hắn để hắn có thể được tới với Chúa ở Thiên
Đàng. Đoạn đời ngắn ngủi của Squanto trong vài tháng ở Plymouth
không phải chỉ là một khúc nhạc đồng quê êm ả mà hơn nữa nó minh
họa sự đối nghịch về giá trị của hai nét văn hóa da trắng và da
đỏ cùng tồn tại trong cùng con người đó. Thống Đốc
Bradford đã viết: "Squanto là một đặc cụ của Chúa gởi xuống cho
nhóm Pilgrims ngoài sự mong đợi của họ.” Sử gia Phinney Baxter
đã nhận định: “tâm trí của Squanto đã được mở rộng vượt qua các
đồng loại vì được tiếp xúc với văn minh Aâu Châu và một sự hiểu
biết của đại thế giới.”
Để ăn mừng Lễ Tạ Ơn, người ta dùng
trái bí rợ và gà lôi vì đó chính là những thức ăn mà người da
đỏ đã mang tới cho di dân. Trong dịp này nhiều bà nội trợ khéo
tay đã trổ tài nấu nướng chế biến nhiều món ăn thật
ngon miệng cho chồng con và thân hữu. Thực đơn của một bữa ăn
thường gồm có: gà lôi, khoai tây nghiền, nước sốt, thịt ướp nhồi,
hương vị trái cranberry, bánh bí rợ, và bánh mì. Một bữa ăn truyền
thống cho tám hay mười người thường gồm: một con gà tây quay 14
pounds; 3 pounds sốt rau; 5 pounds khoai tây ghiền; 3 pounds
khoai lang ướp ngọt; 3 pounds đậu xanh hay cà rốt; nửa lít nước
cranberry; bánh mì và bánh nướng bí rợ hay táo.
Tiệc ăn mừng Lễ Tạ Ơn sẽ hứng thú hơn nhiều nếu người ta hình
dung ra tình cảnh của nhóm người hành hương đi tìm tự do tín
ngưỡng đã trải qua những ngày đông thật giá lạnh lại không có
thực phẩm tại một miền đất thật xa lạ và đầy hãi hùng nhưng cũng
đầy vẻ quyến rũ vì vẻ hoang sơ của nó. Rồi một phép lạ xẩy ra,
họ đã tồn tại, và Hoa Kỳ vĩ đại hôm nay đã thực sự chào đời từ
buổi ấy…
Hải Bằng.HDB