Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

Chẩn đoán và điều trị đột quỵ

Các yếu tố rủi ro dẫn đến đột quỵ. (Hình: hearthighway.org)

Việc xác định đúng nguyên nhân căn bản và vị trí của đột quỵ (stroke, còn gọi là tai biến mạch máu não) sẽ quyết định việc điều trị. Với tiến bộ của y khoa, việc chẩn đoán đã là việc thường ngày ở các phòng cấp cứu, nhất là những nơi chuyên về đột quỵ.

Chẩn đoán

Vì vậy, khi gọi 911, cần nói cho tổng đài 911 biết rằng ta nghĩ là bệnh nhân đang bị đột quỵ, với các triệu chứng ta quan sát thấy; để họ có thể thu xếp trước để bệnh nhân có thể được đưa đến nơi thích hợp nhất; và nơi đó có thể chuẩn bị sẵn để chữa trị ngay khi bệnh nhân đến nơi. Vì kết quả có thể thay đổi hẳn theo từng phút được chữa trị sớm hay trễ hơn.

Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ nhận biết các cơn đột quỵ nhỏ vì triệu chứng có thể bị bệnh nhân và gia đình bỏ qua do hiểu nhầm đó là do lão hóa, hoặc có thể bị nhầm lẫn với các triệu chứng của các bệnh thần kinh khác.

Cần nhắc đi, nhắc lại: Bất kỳ dấu hiệu cảnh báo đột quỵ nào cần cũng cần phải đánh giá y tế ngay lập tức. Càng mất nhiều thời gian, tổn thương não càng nghiêm trọng hơn.

Điều trị

Một trong những nguyên nhân cho sự khẩn cấp của việc đánh giá các dấu hiệu cảnh báo đột quỵ là các nhà nghiên cứu đã phát hiên ra rằng tổn thương não do đột quỵ có thể lan ra ngoài khu vực bị ảnh hưởng do đột quỵ và có thể trở nên nặng hơn trong vòng 24 giờ đầu tiên. Các bác sĩ sẽ hạn chế hoặc phòng ngừa tổn thương thứ phát này bằng các loại thuốc riêng trong vòng một vài giờ đầu tiên sau đột quỵ nếu phù hợp.

Khi đột quỵ xảy ra, nhập viện là cần thiết để xác định nguyên nhân và loại đột quỵ và để điều trị hoặc ngăn ngừa các biến chứng tiếp theo. Có thể cần điều trị bằng giải phẫu cũng như bằng thuốc.

Một khi tình trạng của người sống sót sau đột quỵ đã ổn định và tổn thương thần kinh có vẻ không còn tiếp diễn, giai đoạn phục hồi chức năng bắt đầu. Phục hồi chức năng không chữa được đột quỵ. Thay vào đó, nó tập trung vào việc giảm thiểu tổn thương vĩnh viễn và tăng cường thích nghi.

Phục hồi chức năng có thể bao gồm việc tập luyện tích cực các lĩnh vực khác nhau bao gồm chuyển động, thăng bằng, nhận thức về không gian và cơ thể, kiểm soát ruột/bàng quang, ngôn ngữ và các phương pháp mới về thích nghi tâm lý và cảm xúc. Chương trình phục hồi chức năng sau đột quỵ bao gồm các nỗ lực phối hợp của nhiều chuyên gia y tế.

Khoảng 80% số người sống sót sau đột quỵ bị tổn thương kéo dài về thể chất, nhận thức hoặc/và ngôn ngữ, có thể cải thiện được thông qua phục hồi chức năng. Đôi khi có người không nhận được các dịch vụ họ cần vì các dịch vụ này không được giới thiệu tới họ hoặc vì bảo hiểm thông báo rằng họ không bao trả chi phí đó.

Ta nên và cần hỏi kỹ lưỡng và kiên quyết để có được sự trợ giúp mình cần. Cán sự xã hội hoặc nhân viên làm thủ tục xuất viện có thể giúp đỡ bằng cách cấp giấy giới thiệu đến các trung tâm phục hồi chức năng. Một cán sự xã hội cũng có thể có ích khi cần thực hiện các thu xếp đặc biệt cho việc chăm sóc dài hạn và giới thiệu tới các nguồn lực cộng đồng.

Di chứng sau đột quỵ

Phục hồi sau đột quỵ khác nhau: một số người có thể phục hồi hoàn toàn trong khi những người khác sẽ bị khuyết tật nhẹ, trung bình hoặc nghiêm trọng.

Phục hồi nhanh nhất xảy ra trong vòng 30 ngày đầu tiên sau đột quỵ. Do đó, tích cực và chủ động tập vật lý trị liệu một cách thích hợp, càng sớm càng tốt (nếu bác sĩ đã khuyến cáo như vậy), với các trung tâm, chuyên gia phục hồi chức năng chuyên về đột quỵ, là yếu tố quan trọng nhất quyết định việc thành công trong việc phục hồi các chức năng cần thiết sau khi bị đột quỵ.

 Hậu quả cụ thể trên một người sống sót sau đột quỵ sẽ phụ thuộc vào vị trí và phạm vi của đột quỵ và việc người đó đã được điều trị nhanh như thế nào. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não trái có thể ảnh hưởng đến giao tiếp và trí nhớ, cũng như vận động ở phần cơ thể bên phải. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não phải có thể ảnh hưởng đến các khả năng không gian và nhận thức, cũng như vận động ở phần cơ thể bên trái.

Mặc dù không có hai người sống sót sau đột quỵ nào có tổn thương hoặc khuyết tật giống hệt nhau, những triệu chứng thể chất, nhận thức và cảm xúc chung của những người này thường là:

-Tê liệt hoặc yếu: Thường là ở một bên cơ thể, bao gồm cả mặt và miệng. Bệnh nhân có thể bị khó nuốt hoặc bị mất chức năng một bên.

-Vấn đề thị giác: Bệnh nhân có thể không tập trung nhìn được, có thể có điểm mù hoặc có vấn đề với tầm nhìn ngoại vi.

-Khó khăn trong giao tiếp: Rối loạn, hoặc tổn thương nặng nề, hoặc mất hẳn khả năng ngôn ngữ là khái niệm được dùng để mô tả tập hợp sự thiếu hụt về giao tiếp, bao gồm gặp vấn đề khi nói, hiểu, đọc và viết.

-Rối loạn cảm xúc: Biểu hiện không kiểm soát, không lý giải được của hành động khóc, tức giận, hoặc cười mà có thể ít có liên hệ đến trạng thái cảm xúc hiện tại của bệnh nhân. Những biểu hiện này thường đến và đi nhanh chóng và có thể giảm dần theo thời gian.

-Trầm cảm: Lo lắng (đặc biệt là về khả năng gặp một cơn đột quỵ khác) và trầm cảm không phải là hiếm gặp sau đột quỵ, và có thể có nguyên nhân sinh lý và tâm lý. Có thể dùng thuốc để giảm nhẹ những triệu chứng này.

Khoảng 80% số người sống sót sau đột quỵ bị tổn thương kéo dài về thể chất, nhận thức hoặc/và ngôn ngữ. (Hình: hearthighway.org)

Chăm sóc

Việc chăm sóc một người bị đột quỵ là thử thách rất lớn cho người chăm sóc.

Các khả năng hành vi, ghi nhớ, giao tiếp và thể chất đều có thể bị đột quỵ ảnh hưởng. Khi một người yêu quý phải nhập viện lần đầu tiên ngay sau khi bị đột quỵ, các gia đình thường tham gia giúp cung cấp thông tin về tiền sử và triệu chứng của bệnh nhân, kiểm tra việc điều trị, trao đổi về các lựa chọn chăm sóc bệnh nhân và nhìn chung đóng vai trò kết nối giữa nhân viên bệnh viện và bệnh nhân. Người chăm sóc trở thành người phát ngôn và ủng hộ chính của bệnh nhân.

Khi quá trình điều trị tiến triển, người chăm sóc chính cũng có thể tham gia vào việc lựa chọn cơ sở phục hồi chức năng, phối hợp các dịch vụ chăm sóc tại nhà, cung cấp vận chuyển, giữ nhà và nấu ăn và giao tiếp với các bác sĩ và nhân viên phục hồi chức năng. Khi thời gian trôi qua và những khiếm khuyết vẫn còn tồn tại, người chăm sóc cũng có thể phải đối phó với sự trầm cảm của bệnh nhân, nhu cầu chăm sóc thể chất, phối hợp chăm sóc tại nhà với các liệu pháp nghề nghiệp, lời nói, hoặc thể chất, hỗ trợ giao tiếp nếu bệnh nhân bị suy giảm khả năng giao tiếp và cung cấp sự nâng đở về tâm lý và xã hội.

Nên biết và nhớ rằng có rất nhiều trợ giúp trong cộng đồng, và điều quan trọng là phải tìm kiếm. Phục hồi chức năng có thể là một quá trình lâu dài với tiến triển chậm chạp và đôi khi thất thường. Quá trình phục hồi của mỗi người đều khác nhau. Vai trò ủng hộ của người chăm sóc vẫn sẽ tiếp tục. Trong khi hồi phục, hãy cố găng tập trung vào khả năng, tiến triển, sự cố gắng của bệnh nhân hơn là hạn chế của họ, và khuyến khích họ mỗi khi có tiến bộ, dù lớn hay nhỏ.

Mặc dù chăm sóc cho người mình yêu quý có thể tốn nhiều thời gian, hãy cố gắng chú ý tới sức khỏe của chính ta và cách mà bất kỳ căng thẳng nào có thể ảnh hưởng đến ta. Để tránh kiệt sức về việc chăm sóc, hãy cố gắng ngủ đủ, ăn uống lành mạnh, chú ý đến nhu cầu y tế của bản thân và tập luyện khi có thể.

Trợ giúp về tư vấn và nghỉ ngơi (tức là tạm giao việc chăm sóc cho một thành viên trong gia đình, bạn bè hoặc người chăm sóc được thuê) có thể cho phép ta có một khoảng thời gian một mình để tập hợp và làm mới năng lượng cho những công việc phía trước. Hãy nhớ yêu cầu trợ giúp khi ta thấy cần. Tìm trợ giúp cho chính ta, cũng như cho người ta yêu thương, là cần thiết và có lợi cho cả người mà ta chăm sóc và bản thân mình.

Bài có tham khảo từ Mayo Clinic và CareGiver.org. / ]Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng/nguoiviet