Phật
Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng
câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không
ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh
ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể
khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Năm
trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong
bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là
của họ.
Một
người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi
là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một
bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã
tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy
tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu.
Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy
nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài
giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu,
đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà
chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống
của mình.
Kinh
nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu,
vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân
chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một
người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức
Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng
Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu
cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do
đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu
nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh
phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con
người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn
luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều
kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem
ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thực
ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng
nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất
nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế
các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều
nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao
Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ,
yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây
dựng hoà bình.
Thực
vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên
Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không
phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin
tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại.
Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em.
Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói
theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được
sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng
người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng
mình.
Trong
tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ
thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa
chúng ta với anh em đồng loại.