Trong cuộc sống, chắc hẳn sẽ có lúc chúng ta vô tình bị trầy xước, đứt tay, chảy máu, v.v. Vậy cần xử lý như thế nào đối với những vết thương này? Cồn, iodophor, iốt, dung dịch tím…là những loại thuốc chuyên dụng điều trị vết thương nhưng cần sử dụng đúng cách để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Không nên dùng cồn cho những vết thương lớn
Vào thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên, nhà khoa học y học Ả Rập nổi tiếng Ibn Sina đã dùng trí tuệ và kinh nghiệm trong suốt cuộc đời để hoàn thành tác phẩm y tế có thẩm quyền lúc bấy giờ là ‘The Canon of Medicine’. ‘The Canon of Medicine’ đề cập rõ ràng đến việc sử dụng cồn trong điều trị vết thương. Đây được xem là bản ghi chép sớm nhất về việc cồn có thể được sử dụng để khử trùng.
Nguyên lý khử trùng bằng cồn rất đơn giản, cồn hấp thụ độ ẩm của protein vi khuẩn, khiến chúng bị mất nước, biến tính và đông đặc. Nhưng tại sao nồng độ khử trùng thường được sử dụng là 75%? Đó là do áp suất thẩm thấu của cồn là 75%, nó tương tự như áp suất thẩm thấu của vi khuẩn nên có thể dần dần xâm nhập vào bên trong vi khuẩn để làm biến tính và đông tụ tất cả các protein của vi khuẩn. Cuối cùng là tiêu diệt chúng. Nếu nồng độ thấp hơn 75% thì do tính thẩm thấu giảm nên khả năng diệt khuẩn cũng sẽ giảm theo. Ví dụ như rượu chúng ta uống hoàn toàn không đủ để khử trùng vết thương. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cồn có tính kích ứng cao và không thể được sử dụng trên những vết thương lớn hoặc màng nhầy. Vì vậy, nó không được sử dụng rộng rãi khi xảy ra chấn thương mà chỉ dùng để khử trùng xung quanh vết thương.
Phân biệt sự khác biệt giữa cồn i-ốt và iodophor
Cồn i-ốt: I-ốt là chất oxy hóa mạnh, khi hòa tan trong cồn sẽ biến thành cồn i-ốt. Cồn i-ốt có khả năng xuyên thấu mạnh mẽ và là chất khử trùng hiệu quả cao, thậm chí có thể tiêu diệt bào tử vi khuẩn.
Tuy nhiên, do cồ i-ốt chứa 50% cồn, rất dễ gây kích ứng da và gây nám nên cần sử dụng cồn 75% để loại bỏ i-ốt sau khi khử trùng da. Vì vậy, iốt thường không được sử dụng để khử trùng vết thương và màng nhầy, nó chủ yếu được sử dụng để khử trùng vết tiêm, vết máu và da ở vùng phẫu thuật.
Iodophor: Thành phần chính của iodophor là nước và i-ốt phức hợp, hoàn toàn không chứa cồn. Khi iodophor được bôi lên vết thương trên da hoặc màng nhầy, nó có thể giải phóng các ion i-ốt, tạo nên chất oxy hóa mạnh và có tác dụng khử trùng.
So với i-ốt, iodophor không gây kích ứng màng nhầy. Khi xảy ra bỏng, trầy xước hoặc nhiễm trùng, iodophor có thể được sử dụng để khử trùng; iodophor không cần loại bỏ i-ốt, không dễ làm nhiễm bẩn quần áo và dễ làm sạch.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cả cồn, iodophor và i-ốt đều không được sử dụng cùng với các chất khử trùng có chứa thủy ngân, chẳng hạn như thuốc đỏ (mercurochrome), bởi vì khi các ion i-ốt gặp thủy ngân, chúng có thể tạo thành thủy ngân iodua, đây là một chất rất độc hại. Chất độc này không chỉ kéo dài thời gian phục hồi vết thương mà còn gây loét vết thương, thậm chí ngộ độc thủy ngân.
Iodophor là một hợp chất chứa i-ốt, thường được sử dụng trong các ứng dụng diệt khuẩn và khử trùng. (Ảnh: Pixel-Shot/ Shutterstock)
Thuốc đỏ và thuốc tím đã bị cấm
Thuốc đỏ (rifampicin): Thành phần của thuốc đỏ chứa một lượng lớn thủy ngân kim loại nặng, mặc dù các ion thủy ngân phân ly và kết hợp với protein để khử trùng nhưng tác dụng thẩm thấu vào da yếu và tác dụng kháng khuẩn còn hạn chế. Hơn nữa, Tổ chứ Y tế Thế giới (WHO) đã liệt kê thủy ngân vào danh sách các hợp chất vô cơ bị cấm. Đây được xem là chất gây ung thư loại III và có thể gây ngộ độc.
Thuốc tím (Kali Pemanganat): Chất lỏng màu tím thực chất là dung dịch nước metyl tím. Trước đây các thí nghiệm trên động vật ở nước ngoài đã chỉ ra rằng metyl tím là chất gây ung thư liên quan đến liều lượng. Vương quốc Anh đã hạn chế sử dụng dung dịch tím trên các bề mặt da không bị tổn thương cục bộ và nghiêm cấm sử dụng dung dịch này trong cơ thể.
Ngoài ra, thuốc tím cũng giống như thuốc đỏ, sau khi bôi lên vết thương thì rất dễ hình thành một lớp màng bảo vệ giữa bề mặt vết thương có mủ và mô hoại tử, thoạt nhìn thì thấy vết thương có vẻ khô, nhưng thực tế là nó đã che đậy tình trạng bệnh và làm xuất hiện vảy ở dưới da, mủ của người bệnh có thể không chảy ra trơn tru, khiến tình trạng nhiễm trùng trở nên trầm trọng hơn.
Hướng dẫn quốc tế khuyến nghị không sử dụng hydrogen peroxide (nước oxy già)
Nhiều người suy nghĩ rằng oxy già luôn là vật phẩm có tác dụng khử trùng vết thương. Tuy nhiên, hướng dẫn thực hành chăm sóc loét áp lực toàn cầu năm 2014 nêu rõ rằng ngay cả ở nồng độ thấp, oxy già cũng có độc tính cao đối với các mô và không thể xếp vào lựa chọn đầu tiên để sử dụng làm chất khử trùng bên ngoài.
Oxy già có tác dụng oxy hóa mạnh, nhiệt sinh ra trong quá trình oxy hóa lên tới 80 độ, có thể làm biến tính protein của vi khuẩn. Tuy có thể tiêu diệt vi khuẩn và các vi sinh vật khác nhưng cũng gây hoại tử các mô bình thường của cơ thể.
Mặc dù oxy già có thể diệt một số vi khuẩn, nhưng cũng có thể làm chậm quá trình lành vết thương nên không được khuyến khích sử dụng. (Ảnh: RHJPhtotos/ Shutterstock)
Phương pháp điều trị đúng là rửa sạch nhiều lần bằng nước muối sinh lý để giảm thiểu hoạt động của vi khuẩn, mở vết thương để hệ thống thoát dẫn hoạt động khiến vi khuẩn và dịch tiết viêm được thải ra hoàn toàn khỏi cơ thể, đồng thời bảo vệ mô mềm khỏi bị tổn thương. Đừng cố rửa sạch bằng oxy già ngay từ đầu, nếu không nó sẽ cản trở rất nhiều đến quá trình làm lành vết thương.
Kết luận:
Hãy đễ sẵn một ít povidone iốt ở nhà, bởi nó được sử dụng nhiều nhất cho những vết thương nhỏ thông thường. Tuy nhiên vết thương sâu thì nên đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên môn cắt lọc và khâu vết thương.
Theo Lý Trí, Sound of hope/ trithucvn