·
Xong tú tài, tôi vào Saigon
cư ngụ trong đại học xá Minh Mạng Chợ Lớn để tiếp tục việc học. Sau này có một
anh sinh viên dự bị y khoa được xếp chung phòng.
Khi
ra trường phải động viên vào quân đội, tôi nhường anh chân gia sư dạy kèm 2 học
sinh trung học, một trai một gái. Họ là con của một ông Trung Tá bộ tổng tham
mưu và bà chủ một công ty nhập cảng vải lụa.
Cuộc
biển dâu xảy ra. Tôi và ông Tr/T đều bị nhập trại “tập trung học tập cải tạo”.
Tôi “học tập” một thời gian không dài lắm, có lẽ vì cấp bậc nhỏ ít nợ máu. Ông
Tr/T bị chuyển ra trại tù miền Bắc.
Được
trả tự do nhưng không việc làm, lê lết ở các quán cà phê vỉa hè, một ngày nọ
tình cờ gặp lại bạn. Bấy giờ anh đã là bác sĩ tại một bệnh viện thuộc quận nhất
của thành phố.
Và
câu chuyện bắt đầu từ đây.
Chuyện
kể, khi cô học trò nhỏ không còn nhỏ nữa thì quan hệ giữa cậu cựu gia sư và
tiểu thư tân sinh viên văn khoa đã bước vào giai đoạn anh anh-em em (âu cũng là
điều dễ hiểu). Gia đình cả hai bên đều hoan hỉ, trông đợi ngày đại đăng khoa và
tiểu đăng khoa.
Thế
nhưng thời cuộc đã đảo lộn tất cả. Ông bố Trung Tá đi không biết ngày về. Bà mẹ
mất cơ sở kinh doanh. Cậu con trai lớn tìm lãng quên trong những con hẻm nhầy
nhụa. Tiểu thư tuy vẫn còn đậm nét tiểu thư nhưng chớm trầm cảm vì cuộc sống đã
nhuộm đỏ giấc mơ hồng. Cậu bác sĩ chung tình đeo thêm gánh nặng phiền muộn.
Rồi
phong trào vượt biển rầm rộ khắp nơi.
Trong
lần đi thăm nuôi cuối cùng, bà Trung Tá đưa tiểu thư và cậu bác sĩ ra tận trại
tù Hoàng Liên Sơn dò hỏi ý chồng. Ông Trung Tá bỗng trở nên lạc quan sau những
năm tháng tuyệt vọng. Ông biết sức khỏe và bệnh trạng của ông, biết ngày tàn
không còn xa. Ông không những đồng ý với vợ mà còn mong vợ phải thực hiện
chuyến đi cho các con bằng mọi giá.
Bà
đã được cha mẹ cậu bác sĩ thuận kết sui gia. Nhân tiện gặp ông, bà và ông tác
thành luôn cho đôi trẻ. Đối với cả hai gia đình, họ đã nên duyên vợ chồng.
Ông
xin các con hứa, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lúc vui buồn hay lúc cùng cực cũng
phải gắn bó, không được chối bỏ nhau. Đôi trẻ kín đáo cúi đầu quỳ lạy thay lời
thề chung thủy.
Bạn
tôi cùng vợ và người anh vợ đăng ký chuyến đi bán chính thức của người Hoa. Khi
ra đến bến bãi một sự việc diễn ra ngoài dự tính của nhóm tổ chức. Chỉ những
người Hoa chính gốc mới được nhận. Người Hoa giả mạo bị loại ra.
Chủ
tàu là một đại gia có mẹ già mang bệnh kinh niên nên cần thầy thuốc. Hắn hối lộ
để xin đặc ân cho hai vợ chồng bạn tôi nhưng họ chỉ chấp nhận một người. Dùng
dằng mãi, cuối cùng một mình bạn tôi lên tàu.
Chuyến
hải hành tương đối êm ả đưa người chồng đến đảo Bidong Mã Lai. Người anh vợ và
người vợ trở về buồn hiu hắt.
Anh
may mắn được gia đình một luật sư làm việc trong chính quyền tiểu bang Michigan bảo lãnh qua Mỹ.
Sau
hơn 2 năm ôn luyện bài vở, anh được nhận vào nội trú để hoàn tất bằng hành nghề.
Người
vợ đi thêm 2 chuyến nữa không thành công.
Chuyến
sau cùng chủ tàu gọi đi khẩn cấp. Người anh trai còn mải vui chốn giang hồ không
kịp nhận tin, đành đi chuyến sau. Tôi đến chơi đúng thời điểm. Bà Tr/T cho tôi
trám chỗ, đồng hành với vợ người bạn.
Đâu
có ai ngờ một chuyến đi định mệnh đang chờ đợi!!!
Con
tàu chạy vòng vo 2 ngày 3 đêm vẫn chưa nhìn thấy đất đảo như hoạch định. Tàu
trôi, trôi như vô tận. Tài công thú nhận không có kinh nghiệm lái đường biển.
Buổi
trưa, vừa nhai xong một nhúm cơm và uống một nắp nước do tàu cấp phát thì mọi
người dưới hầm nghe nhiều tiếng chạy thình thịch náo động trên boong tàu. Qua
kẽ hở, biết tàu đã bị hải tặc xâm chiếm không biết từ lúc nào. Họ hoàn toàn làm
chủ tình hình. Trong vòng một tiếng đồng hồ không gặp kháng cự, những tên hải
tặc đã đủ thì giờ lục lọi tìm kiếm vàng bạc và giở trò khả ố với những đàn bà
con gái nằm la liệt trên sàn tàu mà trước đó đã được ưu tiên dời lên vì kiệt
sức.
Sau
khi đã chiến thắng được sự sợ hãi tột cùng ban đầu, một số thanh niên còn khỏe
mạnh họp lại tính chuyện phản công. Đám hải tặc vẫn còn e dè, chặn cửa hầm chưa
dám xuống.
Để
chiến đấu, mỗi người tự trang bị vũ khí cho mình. Với kìm búa gậy sắt gậy gỗ,
họ phá bật nắp cửa hầm, reo hò vùng lên quyết sinh tử khiến đám hải tặc rúng
động. Biết không địch nổi số đông áp đảo, không đợi lệnh, các tên hải tặc chen
nhau nhảy xuống biển bơi về tàu của chúng, xả máy rút lui.
Tôi
cố tìm nguời vợ của bạn.
Một
tên hải tặc mang vết sẹo dài trên vai trái bước ra từ phòng lái đầu hàng. Cô
gái trong phòng nằm trên tấm nệm cao su vẫn còn loã thể chính là người tôi tìm.
Một
tên nữa cũng chậm chân nên bị bắt giữ vì còn mải nhập thiên thai. Tên có sẹo có
lẽ là đầu đảng, xá lạy xin đái công chuộc tội bằng cách hướng dẫn tài công lái
đúng đường, cặp vào đảo Tarempa Nam Dương.
Ngoại
trừ những người bị nhốt dưới hầm, tất cả đàn ông đều bị trói gô chân tay. Một
phụ lái bị giết chết vì kháng cự. Chủ tàu bị ném xuống biển vì cố che chở cho
con gái nhỏ sắp bị hãm hiếp. Hai phụ nữ hoảng hốt nhảy xuống biển tự vận để bảo
toàn trinh tiết. Mười một phụ nữ trẻ bị liên tục thay phiên hãm hiếp, riêng
người vợ của bạn tôi được tên đầu đảng giành độc quyền. Một nam thanh niên
trượt chân rơi xuống biển và năm thanh niên khác bị thương khi chiến đấu. Hai
hải tặc bị bắt giữ nhưng trốn thoát khi tàu vừa cặp bến vào đảo Tarempa.
Chính
quyền địa phương đưa tàu qua đảo Kuku tạm trú. Một tháng sau được chuyển sang
đảo Galang.
Chút
vốn liếng tiếng Anh sót lại từ thời trung học giúp tôi tìm được một việc làm
trong văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Có cơ hội thuận tiện, tôi tường trình trung
thực những gì đã xảy ra.
Tôi
thuyết phục các phụ nữ bị làm nhục ra trước ủy ban điều tra quốc tế đối chứng
với lời khai của tôi nhưng chỉ có người vợ của bạn và một người vợ của anh thợ
máy đồng ý. Tiếng kêu tuy yếu ớt được ghi nhận.
Người
vợ của bạn tôi suy sụp khủng hoảng tinh thần cực độ khi biết đã mang thai. Cô
nài nỉ tôi tìm mọi cách giúp phá nếu không sẽ tự vận. Tôi thật sự khổ sở giữa
nên hay không nên. Nếu nên thì cũng không biết làm sao. Phương tiện y tế hạn
chế, dễ gây hậu quả xấu cho người mẹ.
Sau
một đêm dài trằn trọc tôi quyết định viết một lá thư kể toàn bộ sự việc diễn
tiến trên tàu, nhờ gửi khẩn cho người chồng. Năm tuần lễ sau nhận được hồi âm.
Anh cho biết vị luật sư bảo lãnh anh đã tích cực vận động với các dân biểu và
nghị sĩ tiểu bang cũng như liên bang lên tiếng với bộ ngoại giao Hoa Kỳ, thỉnh
cầu can thiệp trực tiếp trường hợp của vợ anh để xin được đi định cư trong thời
gian sớm nhất trước khi tiên liệu xấu xảy ra. Anh tha thiết xin vợ đừng phá
thai, sẵn sàng nhận vai trò làm cha.
Tôi
đã được phái đoàn Canada
chấp nhận và thông báo ngày đi định cư nhưng phải xin đình hoãn.
Sáu
tháng vận động đã có kết quả. Anh bạn tôi đi cùng với nhân viên lãnh sự quán HK
tại Singapore
đến Galang. Qua thủ tục đặc biệt, mang được người vợ đến Mỹ.
Đứa
bé được sinh ra trên đất Mỹ với khai sinh mang họ của bạn tôi.
Trong
buổi hội ngộ tiệc thôi nôi, vợ chồng anh bạn và người anh vợ cùng tôi đồng
thuận tuyệt đối giữ bí mật mọi chuyện để sự phát triển tâm sinh lý của đứa trẻ
không bị ảnh hưởng và sẽ lớn lên như một người Việt Nam trong một gia đình Việt tỵ nạn.
Thỉnh
thoảng có dịp thăm viếng tôi tưởng như nhìn thấy hạnh phúc thật sự trong gia
đình họ. Cậu bé lớn lên trong tình yêu tràn đầy của cha lẫn mẹ.
Sinh
kế đã làm giảm tần xuất liên lạc giữa chúng tôi một thời gian. Mỗi năm chỉ còn
nhớ đến nhau qua những tấm thiệp xuân. Cho đến một lần, thay vì nhận được thiệp
thì là một lá thư dài kể lại tai nạn thảm thương cướp mất người vợ.
Thường
ngày người chồng nhắc nhở vợ dùng thuốc đều đặn vì hậu chấn thương trên biển cả
khiến người vợ cần được săn sóc tâm thần và tâm lý trị liệu lâu dài. Lần
đó người chồng đi dự hội thảo chuyên môn ở tiểu bang xa nhà. Người vợ đã bỏ
thuốc nhiều ngày, giữa đêm mưa gió đi lang thang ngoài bờ sông không tự kiểm
soát được, ngã xuống nước trôi mất tích.
Vợ
chết. Bệnh trầm cảm truyền qua anh. Mặc cảm có tội luôn luôn ám ảnh. Anh dồn
hết tình thương cho đứa bé, nay đã trở thành một thiếu niên.
Đến
lúc đứa con phải xa nhà vì học vấn anh không thể đương đầu với nỗi buồn gặm
nhấm, trầm cảm nặng hơn.
Nhiều
năm nữa trôi qua. Tin buồn khác lại đến. Bạn tôi qua đời sau một thời gian ngắn
nhuốm bệnh. Anh biết bệnh mình trầm kha, nhưng buông xuôi không quan tâm chữa
trị, có lẽ muốn gặp vợ để giữ trọn lời thề năm xưa.
Đứa
con từ chuyến vượt biển của người vợ bạn tôi năm xưa nay đã là người lớn.
Cha mẹ đều mất. Bác ruột di cư sang Úc theo vợ. Tôi trở thành người thân duy
nhất để chàng thanh niên, tức đứa bé ngày xưa, xả tâm tình. Chúng tôi xem nhau
như chú cháu.
Những
lá thư qua lại làm tôi lây những ưu tư của một người trẻ nghĩ về thân phận
mình. Sau đây là một số trích đoạn từ những lá thư của cháu từ nước Mỹ với ông
chú, thư viết bằng Anh ngữ, và do tôi trích dịch:
.
. .
Chú
ơi! Từ lúc bắt đầu hiểu biết cháu đã linh cảm có điều gì rất nghịch lý trong
gia đình cháu. Hạnh phúc như con bướm lượn lờ trên những bông hoa mời chào,
ngập ngừng muốn đậu rồi lại bay đi.
Cha
cháu chiều chuộng cháu hơn những đứa trẻ cùng trang lứa. Mẹ cháu hay vuốt tóc,
hôn cháu trong không gian tĩnh lặng, nói nhỏ, con của mẹ, mẹ yêu con, lặp đi
lặp lại.
Nhưng
cũng có đôi lúc cháu bắt gặp cặp mắt thất thần của mẹ nhìn ra cõi xa xăm.
Mẹ
rất sợ sông, biển. Những kỳ đi nghỉ hè cha luôn luôn tránh vùng biển.
Cha
săn sóc mẹ từ miếng ăn giấc ngủ. Mẹ biếng ăn, cha bỏ bữa. Mẹ mất ngủ, cha “hầu
quạt”. Mẹ buồn, cha làm hề, dí ngón tay lên trán gọi mẹ là cô bé bướng bỉnh, mẹ
mỉm cười gọi cha là cậu giáo khó tính, thế là buồn tiêu tan. Cha biết làm cho
mẹ vui vẻ hoạt bát qua những viên thuốc mà cha gọi là thuốc tiên, bắt mẹ uống
mỗi ngày (sau này cháu mới biết là những thuốc trị tâm thần).
Mấy
đứa bạn của cháu thắc mắc tại sao cha mẹ cháu đều có nước da sáng, cao lớn, mũi
thẳng mà cháu thì sậm da, người tròn thấp, cánh mũi to.
Cháu
muốn quên mà không quên được cái hình hài không giống ai của cháu. Có phải cháu
là con ngoại hôn của mẹ không chú? Hay cháu là con nuôi? Hay là cháu đến từ một
hành tinh khác?
Chú
không hiểu tại sao cháu lại có những suy nghĩ lẩm cẩm như thế. Chuyện giống hay
không giống là quyền của... ông trời. Cố học thành tài nối nghiệp cha.
Chú
ạ. Cháu báo cho chú tin động... ông trời. Cháu đã xin thử DNA. Ông trời đã sụp
đổ trước mắt cháu! Kết quả đúng như cháu hoang mang lo sợ. Cháu không có liên
quan phụ hệ với cha cháu!
Chú
hiểu tâm trạng của cháu. Nếu chia sẻ được xin cho chú chia sẻ. Chú nhớ có đọc ở
đâu đó:
Cha
không được định nghĩa như người đã tạo ra đứa trẻ, mà khác hơn thế, là người
dang rộng vòng tay và dành thì giờ nuôi nấng đứa trẻ bằng cả tâm trí và tình
yêu. Huyết thống không luôn luôn làm nên người cha. Chữ cha phải thoát ra từ
tấm lòng. Ai cũng có thể tạo ra một đứa trẻ nhưng cha đúng nghĩa nhất chính là
người đã nuôi nấng đứa trẻ.
Không
liên hệ máu mủ không làm cho người cha kém tình phụ tử. Xác nhận một người cha
đích thực, không phải ở DNA, mà ở trong trái tim người ấy.
Cháu
cám ơn chú đã mở mắt cho cháu. Nghĩ lại, cháu không còn vướng mắc chuyện... ông
trời nữa. Nhưng chú ơi! Giòng máu đang chảy trong người cháu là của ai? Cháu
muốn biết và cháu biết chắc chắn chú biết.
Lá
thư của chàng trai khiến tôi phải trăn trở thao thức. Không thể chối cãi là tôi
và cha mẹ cháu đã giấu diếm nguồn gốc của cháu.
Tôi
sẽ tiếp tục giữ hay phá lời thề khi phải trả lời cháu?
Tôi
đặt lên bàn cân, một bên là sự đòi hỏi chính đáng của cháu, một bên là lời cam
kết với vợ chồng bạn. Cháu đã trưởng thành, có suy nghĩ chín chắn. Sẽ mang tội
với cháu nếu vẫn giữ điều bí mật. Vì thế tôi khấn vái vong linh hai người bạn,
xin đựợc giải lời thề giúp tôi thanh thản tiết lộ sự thật, từ tình sử thơ mộng
của hai người cho đến thảm kịch trong chuyến đi định mệnh.
Cháu xin lỗi đã
ngưng liên lạc với chú khá lâu. Cả năm nay cháu đi đi về về giữa Mỹ và Thái Lan.
Cháu
thuê thám tử tư quyết tìm ra tên hải tặc đã mang tai họa cho gia đình cháu.
Bà
ngoại cháu trước khi qua đời vẫn tin tưởng cha mẹ cháu sống hạnh phúc và rất
hãnh diện về đứa cháu ngoại. Ông ngoại cháu đã chết trong trại tù không lâu sau
lần thăm nuôi, chắc không yên tâm nhắm mắt.
Ông
bà nội từng kỳ vọng ở đứa cháu đích tôn một ngày về vinh quy bái tổ, làm rạng
danh dòng họ. Ở bên kia thế giới hai cụ có phẫn nộ vì chi nhánh con cháu chính
thống đã thay máu từ đây?
Mọi
người đều bị lừa dối.
Cháu
có nhờ cô thông dịch viên, đang theo học khoa ngôn ngữ đại học Chulalongkorn,
trợ giúp. Cô này có hoàn cảnh hơi giống cháu. Cha là hải tặc hoàn lương. Mẹ là
thuyền nhân suýt bị nạn trên biển như mẹ cháu.
Nhờ
thám tử và cô bạn, cháu đã tìm thấy và trực diện với người gieo giọt máu oan
nghiệt cho mẹ cháu. Bây giờ ông ta đã trở thành một nhà sư, trụ trì ngôi chùa
nhỏ trong một làng đánh cá.
Cháu tham
khảo các luật sư của Mỹ và Thái với ý định đưa ông ra toà án để đòi lại công lý
cho các nạn nhân, trong đó có mẹ cháu
Chú ơi giúp cháu.
Tiến
thối lưỡng nan!
Nếu
bị kết án, ông sư già có thể phải vào tù, trả giá cho tội lỗi trong quá khứ.
Nhưng điều đó có đổi lại bình an cho cháu không? Nên hay không nên tiến hành
thủ tục pháp lý?
Cháu
lâm vào tình trạng y hệt như chú khi xưa (phân vân giữa việc nên hay không nên
giúp mẹ cháu phá thai).
Chú
ơi, có bao giờ chú hối hận vì đã không giúp mẹ trục thai nhi cháu không? Nếu không
có cháu trên đời thì sao chú nhỉ? Cha mẹ cháu sẽ sống trong thiên đàng hạnh
phúc với những đứa con kết tinh từ tình yêu.
Chú
có nghĩ rằng cháu đang nuôi đau khổ vì nan giải?
Chú
ơi, cháu là ai?
Việt
Nam hay ngoại tộc Việt Nam?
Thái
Lan ư? Ô nhục!
Mỹ
ư? Chỉ trên giấy tờ!
Những
đứa con lai Mỹ dù có bị kỳ thị nhưng vẫn không bị khước từ giòng máu Việt. Còn
cháu, cháu có đựợc cái hãnh diện giới thiệu với mọi người “tôi là người Mỹ gốc
Việt”?
Cháu
muốn ra biển hét thi với sóng, gào lên, hỏi ông trời! Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai?
-
Chú rất thán phục sự quyết tâm và ý chí của cháu. Có lương tâm dẫn dắt, cháu
hãy đi theo, làm những gì cháu thấy nên làm. Nếu cháu muốn được tư vấn thì đừng
chê quan niệm lỗi thời của chú nhé.
Thời
của cha mẹ cháu cũng như chú, không thiếu những chứng tích của tội ác man
rợ. Cũng không thiếu những chứng tích đau thương bi thảm. Trong số này,
có số phận của nhữntg đứa con lai hải tặc.Người ta thường tìm cách che dấu
thứ mà người ta muốn quên. Nhưng cháu, một trong những đứa con đó, đã dũng cảm
nói lên tiếng nói của con người, bình đẳng như mọi người của thế gian này. Giáo
lý Phật Đà dạy ta dùng từ bi và tha thứ để đối phó với nghịch cảnh. Lòng từ bi
không chấp nhận hành động sai nhưng có thể tha thứ cho người làm sai.
Chính
cháu là người đau khổ nhất, không được gì, đúng không? Mong cho ông sư hải tặc
rục xương trong tù? Tất cả chỉ làm tinh thần cháu kiệt quệ.
Cháu
ạ, Kinh Pháp Cú 5 có câu:
Hận
thù diệt hận thù,
Đới này không có được,
Từ
bi diệt hận thù
Là
định luật ngàn thu.
Có
phải cháu muốn tìm sự bình an? Nếu cháu chưa sẵn sàng mở lòng bao dung thì cũng
đừng để tâm bị xáo trộn. Tâm là cốt lõi của cuộc sống. Với tâm thanh tịnh thì
hạnh phúc sẽ tìm đến. Với tâm bất ổn thì đau khổ sẽ bám không rời.
Vị sư
già cũng đi tìm bình an như cháu. Câu kinh tiếng kệ là những tiếng than khóc
của tạo thành một vòng kín vô hình nhốt ông. Ông ta đang thi hành hình
phạt nặng nề nhất của lương tâm. Cứ để ông ta thụ án. Cháu đâu cần phải cố sức
bắt tội nguời có tội. Vào tù hay thoát khỏi tù là quyền của...ông trời!
Thưa
chú,
Chú
đã giải tỏa đám mây u ám vần vũ trên đầu cháu. Cho cháu thấy ở phía trước một
con đường sáng sủa hơn. Hành trang đeo trên vai cũng nhẹ hơn.
Cháu
hối tiếc những ngày còn cha mẹ, cháu đã không mang đến cho các người tiếng cười
hạnh phúc. Không có dịp thầm thì bên tai các người, cha mẹ ơi con yêu cha mẹ.
Cha
cháu đã đón nhận cháu như một quà tặng quí giá của tạo hoá. Mẹ cháu cũng mang
nặng đẻ đau như các bà mẹ khác. Chú tin rằng ơn này còn nặng hơn ơn nghĩa sinh
thành.
Phải
vinh danh những người cha vĩ đại có trái tim thánh. Phải cúi đầu ngưỡng mộ và
cảm thông cho những người mẹ bất hạnh. Người mẹ can đảm, mạnh mẽ đứng dậy sau
khi bị vùi dập, cùng với người cha cưu mang, nuôi nấng sinh linh “lạ”, thay
giòng máu ô nhiễm trong hài nhi bằng giòng máu vô nhiễm của tâm hồn.
Chú
đọc cho cháu thống kê của LHQ, tìm thấy trong thư viện, để cháu có cái nhìn
tổng thể.
Khoảng
839,000 người Việt Nam
đã vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh từ 1975 đến 1997. Phỏng chừng
300,000 đến 400,000 người không đến được bến bờ tự do.
Chỉ
riêng năm 1981 Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ báo cáo: 15,479 thuyền nhân đến Thái Lan đi
trên 452 con tàu. Trong đó 349 tàu đã bị hải tặc tấn công, trung bình mỗi tàu 3
lần. 578 phụ nữ bị hãm hiếp. 228 phụ nữ bị bắt cóc. 881 chết hoặc biệt tích.
Con
số thai nhi do hải tặc không được báo cáo chính xác vì bản chất phụ nữ Việt
hiền lành, chịu đựng. Đa phần do xấu hổ nhục nhã nên không khai báo.
Cháu
đoán, những bào thai ấy nếu sống sót bây giờ đã trở thành những thanh niên,
trung niên bằng hoặc hơn tuổi cháu. Họ có thể đã lập gia đình và có con cái.
Chú
ơi, có ai mang cùng tâm trạng như cháu? Hỏi mãi một câu hỏi “Tôi là ai”?
Thảm
trạng lịch sử đã sang trang chưa? Có nên hâm lại chuyện cũ không? Chú không
biết.
Tội
ác, theo thời gian, có thể dần dần bị quên lãng nhưng chứng tích tội ác là
những đứa con lai... hải tặc hiện hữu khắp nơi.
Chú
nêu vấn đề với cộng đồng, mong câu hỏi “Tôi là ai?” của cháu sẽ được trả lời.
Bằng
lòng với số phận? Sống để bụng chết mang theo?
Nghĩ
sao?
Nguyễn Cát Thịnh 30/4/2018 (bài do bạn Mậu Trần giới thiệu)