Thứ Tư, 18 tháng 11, 2020

Con Người Đi Tìm Thuốc Trường Sinh


 Nhà Xuân vừa mở thọ diên,                    

Chén pha Giếng Cúc, bàn chen Non Đào.

(Nguyễn Huy Tự)
        
Giấc mộng trường sinh, bất tử đã được ghi nhận từ thuở hoang sơ, khi con người 
còn ăn lông ở lỗ. Trong huyền thoại thần tiên, trong niềm mê tín dân gian, trong
 nguồn cảm hứng xuất thần của văn nhân thi sĩ hay luận lý của triết gia. Tân, 
Cựu Ước, kinh Koran cũng có nhắc tới nguồn nước trường sinh.

Nó là động lực thúc đẩy những nhà thám hiểm lặn lội đi tìm suối nước vĩnh cửu
 ở vùng đất lạ, cũng như  là mục tiêu nghiên cứu của các khoa học gia xưa nay.

Nó đã tạo cơ hội làm giầu cho những lang băm, những tên lường gạt rao bán vịt 
trời giữa chợ với môn thuốc trường sinh bất tử.

Nó ám ảnh mọi người, mọi giống. Ai cũng mong mỏi sống mãi không già, 
thoát khỏi  những tàn phá của cơ thể do thời gian, giữ mãi  được những nét 
thanh xuân đầy nhựa sống. Ai cũng nghĩ là ở đâu đó, có môn thuốc mà khi 
uống vào ta sẽ thi gan cùng tuế nguyệt. Ta chỉ việc cố gắng, kiên nhẫn tìm là sẽ
thấy nó.

Nhân dịp xuân  về, chúng tôi mời quý vị,  ta lang thang vào cái vườn địa đàng 
này. Biết đâu lại may mắn nhặt được vài trái đào của Tây Vương Mẫu rơi rớt 
đó đây; uống lén được chút rượu Kim Tương. Để rồi cùng nhau bách niên giai 
lão, tiếp tục mè nheo người bạn đường sung sức...
 
Trường sinh trong Triết học

Đi trước các dân tộc khác, người Trung Hoa xa xưa đã có một khái niệm, một 
triết lý về sự sống lâu.

Lão Tử  từng quan niệm là nếu một sự vật có thể biến thành sự vật khác thì 
với con người, sự chết cũng có thể thành bất tử. Như con nòng nọc có đuôi 
kia biến thành con cóc, con nhái, con sâu róm lột xác thành con bướm. Đạo Lão 
cho con người sống là nhờ sự hoà hợp của âm / dương, nếu giữ được sự hòa hợp
 này thì cuộc sống kéo dài.

Quan niệm này đã và vẫn là căn bản cho Y thuật Trung Hoa cùng các nước 
chịu ảnh hưởng văn hóa quốc gia này như Việt Nam, Triều Tiên. Lão cũng 
khuyên người ta phải tiết kiệm sinh lực bằng vô vi, tập phép hô hấp để tăng 
dưỡng khí cho não bộ, ăn nhiều trái cây, kiêng rưọu, thịt và sống cho phải đạo.

Câu chuyện người Luigi Cornaro, sanh năm 1470, sống cuộc đời phóng đãng
 hơn 30 năm. Thầy thuốc nói nếu tiếp tục như vậy sẽ không qua được tuổi 50.
 Ông ta bèn thay đổi nếp sống, tiết mực hơn và kết qủa là sống tới tuổi 103, để
 lại cho hậu thế nhiều tác phẩm giá trị về bảo vệ sức khỏe.  Hai trăm năm sau,
 nhiều người đã áp dụng lối sống của Cornaro .

Triết gia Plato, thọ 81 tuổi, khuyên ta không được rượu chè say sưa, nhất là ở 
tuổi trung niên, nếu muốn trường thọ.

Thuỷ tổ nền y học tây phương Hippocrates, sống tới 80 tuổi, nhắc nhở con người
 nên từ từ, dung hòa ở mọi lãnh vực để giữ gìn nhựa sống. Nhất là từ khi đặt 
chân lên ngưỡng cửa 60.

Có người muốn kéo dài sự sống thì cũng có người quan niệm ngược lại.

Sinh, Lão, Bệnh, Tử là lẽ thường của tạo hóa, hà cớ chi phải bận tâm quá đáng.

Sự chết cũng tốt cho loài người. Tre già măng mọc, đèn cạn dầu đèn tắt.

Và đã hưởng hết lạc thú rồi thì cầu sống lâu làm gì?

 
Trường sinh trong huyền thoại
 
Huyền thoại Hy lạp, Ấn độ, La mã ghi lại nhiều giai thoại trường sinh thần tiên.

Nàng Eos yêu Tithonus hết mình, muốn cùng chàng bên nhau mãi mãi. Nàng 
xin Thần lãnh đạo Thiên Đường Zeus cho chàng được bất tử. Tithonus sống mãi,
 nhưng càng sống lâu càng trở nên đau yếu, bệnh hoạn và phải nuôi trong 
phòng riêng. Eos trở nên buồn, vì  nàng đã quên không xin cho chàng vừa sống
 lâu vừa giữ được vẻ thanh xuân. Nàng đi kiếm người tình khác.

Người Ả Rập hay kể cho nhau nghe câu chuyện nhân vật quen thuộc El Khidr 
với Giếng Nước Vĩnh Cửu: Một hôm tình cờ El Khidr rửa con cá khô trong giếng 
nước, con cá tự nhiên quẫy động, sống lại.  Không bỏ lỡ cơ hội, El Khidr nhẩy
 xuống giếng tắm và trở thành bất tử .

Hi Lạp xưa cũng có suối nước vĩnh cửu trong rừng Jupiter, mà, theo tục truyền,
 ai tắm nước đó sẽ được phục hồi tuổi trai tráng và khỏe mạnh.

Trường sinh trong văn học, nghệ thuật
 
Văn nhân thi xưa nay cũng khao khát sự trường thọ.

Thi sĩ Hy lạp Hesiod tả hình ảnh đầy hấp dẫn của giống người Golden Race, 
sống lành mạnh tới cả trên trăm tuổi. Đến  khi chết,  họ ra đi một cách nhẹ 
nhàng, thoải mái như đi vào giấc ngủ say.

Pindar  tả cảnh thiên đường trường thọ của dân chúng trong một hải đảo 
giữa biển Atlantic: sống cả ngàn năm trong hoan lạc, không biết gì đến đau 
yếu, bệnh tật.

Trong tiểu thuyết Lost Horizon xuất bản năm 1933, James Hilton tả cảnh 
sống thiên đường của dân chúng ở vùng Shangri-La.

Trong sách Metamorphoses, thi sĩ La Mã Ovid kể lại chuyện vua Aeson của Hi
 Lạp được phục hồi sức khoẻ bằng cách chích vào tĩnh mạch một hỗn hợp điều
 chế từ máu cừu đực chưa thiến, da rắn, thịt cú và rễ nhiều thảo mộc khác nhau.

Trường sinh với các nhà thám hiểm
                                
Nhiều nhà thám hiểm cũng đã giương cờ đi khắp năm châu bốn bể để tìm thuốc
 trường sinh.

Juan Ponce de Leon, người Tây Ban Nha, đã lên đường thám hiểm Tân Thế Giới
 với hy vọng kiếm được thuốc hồi xuân. Ông ta đã già yếu, không thỏa mãn 
được cô vợ trẻ sung sức. Đồng thời ông ta cũng muốn kiếm thần dược dâng Quốc
 Vương Ferdinand II. Không kiếm ra thuốc, nhưng ông ta đã tìm ra tiểu bang phì
 nhiêu, hiền hòa Florida năm 1513. Ông qua đời vì vết thương bị nhiễm độc 
trong khi giao tranh với thổ dân gốc Indian vào tuổi 63.

Tần Thủy Hoàng Đế, sau khi gồm thâu lục quốc, dựng nên nghiệp Đế, muốn bất 
tử để trị vì trăm họ. Ông đã phái  các phương sĩ Từ Phước và Lư Sinh căng buồm 
ra Biển Đông tìm thần dược. Lư Sinh, Từ Phước không tìm ra linh dược, nhưng
 đã lánh nạn và  tìm được những mùa xuân bất tận cho nhiều thế hệ con cháu 
trên đất Phù Tang mầu mỡ.

Năm 1498, Columbus tuyên bố là đã tìm ra miền vĩnh cửu ở dọc theo 
bờ biển  Venezuela, gần đảo Trinidad.
 
Trường sinh với căn bản khoa học
 
Bên cạnh những ý kiến, dữ kiện khó tin, nhiều người đương thời đã có cái nhìn 
nghiêm túc hơn về sự hóa già và phương cách trì hoãn diễn biến này.

Tu sĩ dòng Franciscan kiêm khoa học gia Roger Bacon đã lý luận rằng con người
già vì sự mất bớt nhiệt năng bẩm sinh. Nếu sống hợp lý cộng với thuốc 
men hiệu nghiệm, ta có thể trì hoãn sự mất mát này và sống lâu hơn. Ông ta 
hỗ trợ thuốc chế từ thịt rắn, tim hươu nai và một vài thảo mộc trong rừng ở Nam
 Phi hay nước san hô, ngọc trai. Nhưng phương thức mà ông ta  ưa thích nhất là
 hít  sinh khí hơi thở của trinh nữ.

Người Do Thái khi xưa cũng tin rằng con gái là phương thuốc chữa bệnh tốt. Vua
David, khi về già không được khỏe, cơ thể lạnh toát, đắp bao nhiêu chăn cũng 
không đủ ấm. Thần dân bèn đặt Người nằm cạnh những thiếu nữ với ý định là 
để chân khí từ thiếu nữ tiếp sức cho vua cha. Và Ngài khỏe ra.

Boerhaave, danh y người Đức, sống từ 1668 tới 1738, cũng khuyên viên thị 
trưởng Amsterdam là  nếu muốn lấy lại sinh lực thì hãy nằm  giữa hai thiếu nữ 
còn trinh.

Công dụng Hơi Thở thiếu nữ cũng thấy ghi trong ngôi mộ cổ của một lão nhân 
 Ai cập, nói rằng ông ta sống tới tuổi 115 là nhờ những hơi thở này.

Nhà luyện kim kiêm y sĩ Paracelsus của Đức, vào thế kỷ 16 đã tin tưởng rằng lão
hóa là do sự thay đổi hóa chất trong cơ thể như sự rỉ sét của kim loại.  Ông ta 
khuyên nên ăn uống cân bằng, sống tại vùng khí hậu ôn hoà, dùng những thuốc 
do ông ta chế.

Theo Leonardo Da Vinci, con người  mau gìà là do hậu quả của mạch máu dầy
 lên, máu lưu thông khó khăn, dinh dưỡng suy giảm.

Những thế kỷ  kế tiếp, việc tìm kiếm phương thức trì hoãn  sự lão hóa mang ít 
nhiều tính cách khoa học hơn và được thực hiện bởi nhiều nhà chuyên môn
 quan tâm đến vấn đề này.

Mùa thu năm 1885, Charles Ed. Brown Sequard, 72 tuổi, nguyên giáo sư
 Đại học Harvard, hùng hồn trình bầy trước các học giả uy tín của College of
France. Ông ta cho hay là đã lấy lại được sinh lực, thỏa mãn đòi hỏi tình dục 
cuả người vợ trẻ bằng cách dùng nước tinh chế từ ngọc hành loài chó. Y giới mọi
 nơi vội vàng áp dụng môn thuốc này, nhưng hiệu quả không được như lời nói.

Sau Thế chiến thứ nhất, viên Y sĩ người Nga, Serge Vernof, sang Pháp và cấy 
tế bào ngọc hành cho nhiều người để tăng cường sinh lý.

Ở Mỹ, mấy năm sau, John Romulus Brinkly cũng áp dụng phương pháp này 
cho thân chủ, kiếm được nhiều tiền, mua đài phát thanh và ra tranh cử chức 
Thống đốc tiểu bang Arkansas.

Descartes, Benjamin Franklin, Francis Bacon, Christopher Hufeland ...với nhiều 
công sức nghiên cứu đều tin tưởng là sự lão hóa  và sự tử vong sẽ bị khoa 
học khuất phục. Hufeland còn khuyên ta nên tránh sự tức giận, sự tự hủy  
hoại và  coi chúng là kẻ thù của  trường thọ.
 
Các nghiên cứu hiện đại
 
Jean Martin Charcot, Y sĩ Pháp, được nhiều người coi là cha đẻ của Lão-khoa-học
xuất bản cuốn sách đầu tiên về khoa này năm 1867 nhan đề Clinical Lectures on
Senile and Chronic Diseases. Tác giả đề nghị nghiên cứu diễn tiến sự hoá già,
 nguyên nhân già, thay đổi cơ thể khi về già.

Bác sĩ Ignatz Leo Nascher vận động để các trường Y Khoa đặt trọng tâm vào việc
 nghiên cứu vấn đề liên quan tới hóa già.

Sir Peter  Medawar và Sir Mac Farlane Burnet là những người đầu tiên lưu ý
 tới ảnh hưởng của gene trong sự lão hoá.

Sau thế chiến thứ hai, tốc độ nghiên cứu về vấn đề già phát triển mạnh. Tờ báo
 uy tín Journal of Gerotology ấn hành số đầu tiên vào năm 1946 ở Hoa Kỳ.

Từ năm 1970, tại Mỹ, do sự đòi hỏi của dân chúng, các khoa học gia và chính trị 
gia liên kết thúc đẩy chính phủ trợ cấp nhiều hơn nữa cho việc nghiên cứu các 
vấn đề về lão hóa. Do sự ủng hộ tích cực củaThượng Nghị Sĩ Alan Cranton, cơ 
quan Quốc Gia Tuổi Già (National Institute of Aging)  được chính thức thành 
lập năm 1976. Cơ quan này  có ngân sách cao tới cả nửa tỷ mỹ kim và chuyên 
chú về các vấn đề liên quan tới người cao tuổi .

Ngày nay, trên thị trường thương mại, ta có thể kiếm được nhiều sản phẩm được công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền về y khoa học, hoặc được người chế ra quảng cáo là có công hiệu trì hoãn sự lão hoá.

Nhớ lại vào giữa thập niên năm mươi, đồng bào ta ở Việt Nam nhiều người đua
 nhau  dùng thuốc Gerovital-KH3. Thuốc này được một y sĩ Lỗ Ma Ni điều chế
 và nghe nói các nhân vật nổi danh như  Tưóng De Gaulle, Thủ tướng Adenauer,
 văn hào Sommerset Maugham cũng có dùng. Gerovital vẫn còn được bán tự 
do ở Âu Châu, nhưng không được cơ quan Dược Phẩm Hoa kỳ công nhận giá 
trị chống lão hóa.

Nhiều người hiện đang dùng các loại sinh tố, khoáng chất, anti-oxidant, các 
loại kích thích tố, Q-10, Glutathione, Melantonin, Sod, DHEA, Omega-E ..Và 
được giới thiệu là có thể làm chậm sự lão hoá.                                                                                                                
Các khoa học gia đang đi xa hơn trong công việc này. Họ nhắm vào việc thay 
đổi gene trong nhiễm thể tế bào, việc giới hạn tác hại của các phó sản trong 
biến hóa căn bản của tế bào.

Đi xa hơn nữa, họ nghĩ tới chuyện thay thế những bộ phận hư hao bằng bộ 
phận tạo ra do chính tế bào của mình, được nuôi dưỡng, cấu tạo trong phòng thí
 nghiệm hay trên bào thai, để tránh hiện tượng khước từ thông thường. Một 
ngày nào đó, biết đâu ta lại chẳng tân trang được cơ thể con người và chỉ 
cần đưa đi kiểm tra định kỳ mười năm một lần, như một chiếc xe hơi.

Kết luận
 
 
Trở lại với thực tại, ta thấy tuổi thọ con người đã tăng đáng kể trong hơn trăm
 năm qua.

Chừng nửa thế kỷ nữa, Hoa Kỳ sẽ có khoảng 75 triệu người trên 65 tuổi trong
 tổng số trên dưới ba trăm triệu dân. Tại các quốc gia khác, số người cao tuổi 
cũng tăng theo cùng nhịp độ. Đó là thành qủa những tiến bộ tuyệt vời của 
khoa học cũng như sự thay đổi nhân sinh quan của loài người.

Nhà bác học người Pháp, Louis Pasteur, năm 1856, đặt nền móng cho việc tiêu diệt hầu hết các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân tử vong cao ở các thế kỷ trước, đã là
 người có công đầu trong việc tăng gia tuổi thọ.

Rồi khi sống lâu, loài người lại phải đối phó với những khó khăn mới gây ra
 do môi trường cũng như do thói quen, những bệnh nan y. Con người đã ý thức 
được vấn nạn đó và đang ứng phó rất hiệu nghiệm, tài tình.

Do sự tăng gia số, người cao tuổi sẽ có nhiều mầu sắc mới, sinh hoạt mới trong 
gia đình, xã hội. Những người trên 70 tuổi sẽ có nhiều việc để bận rộn trong 
khoảng thời gian trên dưới 30 năm còn lại của cuộc đời.  Sẽ có nhiều người, 70,
 80 tuổi còn đi làm, hoặc đi học để cập nhật  kiến thức.

Tỷ lệ lão niên nữ sẽ cao hơn nam vì sống lâu hơn. Sẽ có nhiều cặp nhân tình
 đầu bạc sống chung để nương tựa, đầm ấm với nhau. Sẽ có nhiều trường hợp
 con cái dọn về ở với cha mẹ già để các cụ bớt đơn côi.

Kỹ nghê phục vụ nhu cầu người cao tuổi sẽ phát triển mạnh. Hãng du lịch sẽ 
phát triển mạnh để thảo mãn nhu cầu người già.

Đồng thời, khối cử tri của người cao tuổi sẽ có ảnh hưởng nhiều tới các vấn đề 
trọng yếu của quốc gia.  Người già sẽ lấy lại được sự trân trọng như trong
 thời kỳ nữ hoàng Anh Quốc Victoria xưa kia.

Và trong tương lai, khoa học nghiên cứu sẽ hướng nhiều vào việc  “tăng đời 
sống cho  năm tháng chứ không chỉ tăng năm tháng cho cuộc đời” (adding life 
to years, not just adding years to life). Để nhân loại sống trong  thế kỷ thứ hai 
mươi mốt với tinh thần “Sống lâu, Sức khoẻ, mọi  vẻ mọi hay”.

Đó sẽ là những chén rượu Kim Tương, những trái Bàn Đào mà chúng ta mong đợi.

BS Nguyễn Ý-Đức/nguoiphuongnam