Tiểu đường đã và đang trở thành nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh thận ở giai đoạn
chót (thận trở nên hoàn toàn vô dụng trong việc thải các chất độc ra khỏi cơ thể, (cần phải
lọc thận hoặc thay thận) ở Mỹ và Châu Âu.
Ở Hoa Kỳ, bệnh thận gây ra do tiểu đường chiếm khoảng 40% các trường hợp mới của bệnh
thận ở giai đoạn chót. Khoảng 20% đến 30% các bệnh nhân bị tiểu đường loại 1 hoặc loại
Tỉ lệ sẽ bị tổn thương thận tiến triển đến giai đoạn chót của các bệnh nhân bị bệnh tiểu
đường loại 2 thấp hơn so với những người bị tiểu đường loại 1. Tuy nhiên, vì trong số
những người bị tiểu đường, số lượng những người bị tiểu đường loại 2 cao hơn nhiều so
với loại 1, cho nên hơn phân nửa những bệnh nhân tiểu đường bắt đầu cần phải lọc thận,
lại là các bệnh nhân tiểu đường loại 2.
Sự tiến triển tự nhiên của tổn thương thận ở bệnh nhân tiểu đường
Các dấu hiệu sớm nhất của tổn thương của thận ở các bệnh nhân tiểu đường là sự xuất hiện
một số lượng (tuy) nhỏ (nhưng) bất thường của chất đạm (được gọi là) albumin bị thải
ra trong nước tiểu, tiếng chuyên môn gọi dấu hiệu này là microalbumin (30 mg/mỗi ngày).
Nếu không được điều trị thích hợp, khoảng 80%, các bệnh nhân bị tiểu đường
loại 1 có microalbumin sẽ bị thải chất albumin ra trong nước tiểu ngày càng nhiều, với mức
độ tăng khoảng 10% đến 20% mỗi năm, đến độ nặng gọi là macroalbumin (300 mg/mỗi
ngày). Khi đã bị macroalbumin, ở các bệnh nhân tiểu đường loại 1, sự tiến triển đến mức
thận hoàn toàn vô dụng sẽ khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể (được trị liệu ra sao,
có kèm theo những bệnh gì khác, vân vân), nhưng nói chung, bệnh sẽ tiến triển đến giai
đoạn chót trong vòng 10 năm ở 50% các bệnh nhân, và trong vòng 20 năm ở 75% các bệnh
nhân.
Ở các bệnh nhân tiểu đường loại 2, bệnh nhân thường tìm thấy bị microalbumin và
macroalbumin sớm hơn sau khi được chẩn đoán bị bệnh tiểu đường. Nếu không được điều
trị thích hợp, 20% đến 40% những người bị microalbumin sẽ tiến triển đến mức
macroalbumin.
Tuy nhiên, chỉ khoảng 20% những người tiểu đường loại 2 bị macroalbumin sẽ tiến triển
đến giai đoạn chót trong vòng 20 năm. Con số này thấp hơn của những người bị tiểu
đường loại 1, một phần vì những người lớn tuổi bị tiểu đường loại 2 có nguy cơ cao hơn bị
chết do các bệnh liên quan đến sự tắt nghẽn của động mạch vành (cung cấp máu nuôi tim),
khiến họ không kịp sống đến khi bệnh thận phát triển đến giai đoạn chót (với các tiến bộ
trong việc điều trị các bệnh tim, ngày càng có nhiều bệnh nhân tiểu đường loại 2 sống
“được” đến khi bệnh thận phát triển đến giai đoạn chót).
Bên cạnh việc là dấu hiệu của tổn thương thận, sự xuất hiện của chất albumin trong nước
tiểu cũng là một báo hiệu của nguy cơ bị bệnh tim cũng như tử vong do bệnh tim, ở cả
các bệnh nhân tiểu đường loại 1 cũng như loại 2.
Do đó, microalbumin trong nước tiểu cũng là một chỉ định cho việc truy tầm các bệnh tim
mạch và tăng cường việc làm giảm các nguy cơ tổn thương tim mạch, như là trị cao
huyết áp chặt chẽ, hạ mức cholesterol xấu LDL, bỏ hút thuốc, thể dục đúng mức…
Ngược lại, cũng có một số chứng cứ ban đầu cho thấy hạ mức cholesterol cũng có thể giúp
hạ việc albumin bị thải ra nước tiểu.
Thử albumin trong nước tiểu như thế nào
Vì việc xuất hiện của albumin trong nước tiểu đóng vai trò báo hiệu quan trọng như vậy,
nên việc xét nghiệm theo dõi điều này là điều quan trọng trong việc tìm thấy, phòng và
chữa các biến chứng thận do bệnh tiểu đường. Xét nghiệm này nên được thực hiện ngay
khi một bệnh nhân được chẩn đoán bệnh tiểu đường loại 2. Còn ở người bị tiểu đường
loại 1, xét nghiệm này cần được thực hiện bắt đầu năm năm sau khi bệnh được chẩn đoán.
Vì mỗi trường hợp mỗi khác, nên việc xét nghiệm albumin trong nước tiểu này sẽ có thể
được thực hiện sớm hơn tùy thuộc vào phán đoán của bác sĩ. Sau khi đã thử lần đầu,
nếu không thấy albumin trong nước tiểu, mỗi năm ta cần kiểm tra chuyện này lại một lần.
Có ba phương pháp chính để tìm albumin trong nước tiểu:
-Một là đo một cách ngẫu nhiên trong một mẩu nước tiểu.
-Hai là lấy nước tiểu của cả 24 tiếng đồng hồ trong ngày.
-Ba là lấy nước tiểu trong một khoảng thời gian nào đó, ví dụ như là sáu tiếng đồng hồ, qua
đêm…
Cách thứ nhất tương đối tiện lợi nhất và cũng tương đối chính xác, và do đó thường được
thực hiện nhất. Trong cách này, mẩu nước tiểu đầu tiên vào buổi sáng thường tốt nhất vì
người ta mức thải albumin trong nước tiểu vào các thời khắc khác nhau trong ngày đã
được biết đến, và mức nước thải albumin vào lúc đầu tiên sau một đêm thường được khảo
sát hơn cả để tính toán thành mức của cả 24 tiếng đồng hồ. Nếu không làm được điều này,
mỗi lần lấy nước tiểu, ta nên thực hiện vào cùng một giờ giấc sẽ cho kết quả tương đối tốt
hơn.
Một số yếu tố có thể làm mức albumin trong nước tiểu cao lên, là sau khi tập thể dục,
lấy nước tiểu trong lúc mức đường máu đang cao, đang bị nhiễm trùng đường tiểu, đang
bị bệnh gây sốt, huyết áp đang quá cao.
Sau khi đã tìm thấy albumin trong nước tiểu, việc điều trị sẽ được bắt đầu (nếu các thuốc
này chưa được cho bệnh nhân dùng trước đó). Sau đó việc tiếp tục kiểm soát mức
albumin trong nước tiểu sẽ có thể giúp các bác sĩ theo dõi hiệu quả của điều trị cũng
như sự tiến triển của biến chứng thận.
Bên cạnh xét nghiệm quan trọng này, nhiều xét nghiệm khác cũng góp phần theo dõi chức
năng và mức độ tổn thương của thận.
BS nguyentranhoang/nguouphuongnam