CHÚT TÂM TÌNH VỀ NGÀY 30 THÁNG 4
46 năm đủ cho sự ra đời và trưởng thành của hai thế hệ. Song đối với những người miền Nam đã chứng kiến cái ngày 30.4.1975 và những ngày tháng tiếp sau đó, nhiều hình ảnh cứ “mới như ngày hôm qua”. Bởi vì chúng vẫn còn đậm nét quá, chúng hằn sâu vào ký ức, dẫu cho có những lúc ta muốn quên chúng đi, nhưng nào có được.
Sau cái ngày 30.4 ấy, người ta nhắc nhiều đến 2 chữ “đổi đời”, thật khó có từ nào chính xác đến thế. Nó là cuộc đổi đời của hàng triệu người thua cuộc, nếu không chịu đựng cảnh tử biệt sinh ly thì cũng giương cặp mắt thất thần nhìn khối tài sản tích cóp bằng cả mồ hôi và nước mắt tan biến thành mây, thành khói. Nó là những phận người bắt đầu ngụp lặn trong bể khổ trần ai, giữa những vùng kinh tế mới hoang vu thiếu thốn trăm bề, trong những trại “học tập cải tạo” giữa hun hút rừng sâu.
Nhưng sự đổi đời cũng có nghĩa tích cực của nó. Nó tạo điều kiện cho hàng chục triệu đồng bào miền Bắc nhìn thấy cái thực tại sống động của một Sài Gòn, của một miền Nam dưới vĩ tuyến 17 mà họ chưa bao giờ có thể tưởng tượng ra được như thế. Nó kết nối dần tình cảm và tâm tư của đồng bào Nam-Bắc, khi họ nhìn thấy nhau, tiếp xúc với nhau và nhận chân ra rằng cả hai khối đồng bào ruột thịt chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.
Ngày 30.4, nhớ nghĩ đến những “giai thoại” đã tồn tại hơn 40 năm qua về những cái “đổng” có nhiều cửa sổ, về những “tivi chạy đầy đường”, về những “cái nồi ngồi trên cái cốc” …, chúng ta không cười cợt trên sự ngu ngơ của đồng bào chúng ta, mà từ trong đáy lòng của mỗi chúng ta dâng lên niềm thương cảm về những phận người ruột thịt chung một dòng máu, chung một tổ tiên, đã không có được những năm tháng tương đối đủ đầy cả về vật chất lẫn tinh thần như chúng ta.
Khi có thể nghĩ được rằng sự trả giá của chúng ta với tính cách là người thua cuộc được bù đắp phần nào bởi sự cải thiện cuộc sống của rất nhiều đồng bào phía Bắc, ta sẽ cảm thấy lòng thanh thản hơn, đỡ ray rứt hơn mỗi khi cái ngày 30.4 lại trở về trong tâm trạng ngổn ngang của hàng triệu triệu người.
Chúng ta cũng sẽ cảm thấy ấm lòng hơn khi rất nhiều đồng bào phía Bắc đã thay đổi hẳn cảm nghĩ về những người từng sống dưới vĩ tuyến 17, những cảm nghĩ từng bị định khuôn, che chắn bởi một bức màn sắt khổng lồ không để lọt qua bất cứ một sự thật nhỏ nhoi nào.
Ngày 30.4, ta nghĩ về tình tự dân tộc và sự hòa hợp không đến từ bàn tay ban phát của người cầm quyền, mà từ sự hiểu biết lẫn nhau, cảm thông nhau khi nhìn về quá khứ bi thương và một hiện tại còn đầy rẫy cam go trước mắt.
Đọc hồi ức về ngày 30.4.1975 và những ngày tháng sau đó của một số bạn trưởng thành bên trên vĩ tuyến 17, nhiều hình ành, cảm nghĩ khiến lòng ta không khỏi bùi ngùi. Đó là hình ảnh những cậu học sinh mười tám, đôi mươi, lần đầu tiên thấy cây bút nguyên tử (bút bi) và tròn xoe mắt nhìn, hỏi nhau sao viết hoài mà không hết mực. Đó là sự kinh ngạc và thích thú của những cô cậu thiếu niên lần đầu tiên thấy gói mì tôm, chỉ cần bóc bao ra, chế nước sôi vào là mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Đó cũng là lần đầu tiên họ có thể nói vào cái “đài” cassette và nghe lại được giọng nói của mình.
Không bùi ngùi sao được, hóa ra trong những tháng năm dài chia cách, nhiều đồng bào ruột thịt của chúng ta đã phải sống trong sự tăm tối và kham khổ đến chừng nào! Sau ngày 30.4.1975, với họ, bên cạnh sự thay đổi ít nhiều về cuộc sống vật chất, đổi đời còn là sự nhận chân được một thực tại rất khác, về những người thua cuộc, những đồng bào miền Nam rất khác so với những gì họ đã hình dung trong trí tưởng của họ, một trí tưởng là sản phẩm của sách giáo khoa và những bài báo mà họ đọc hàng ngày.
Sau ngày 30.4.1975, họ dừng chân
ở một cửa hàng tại Sài Gòn, ngạc nhiên nhìn thấy bà bán hàng vui vẻ, gói hàng
cẩn thận cho họ, không lạnh lùng, nhìn họ bằng “đôi mắt hình viên đạn” như các
cô mậu dịch viên ở quê họ. Họ còn nhìn thấy những con hẻm đầy sách vở, có cả
sách nghiên cứu về triết học Marx-Lenine mà chính quyền bên thua cuộc đã cho
phép biên soạn và phổ biến trong những năm tháng chia cách hai miền
46 năm là đã gần nửa thế kỷ, so với nhiều bạn đồng hành quanh ta, ta đã có những bước tiến … rùa bò. Bởi vì sau 46 năm, vẫn còn đây đó những chia rẽ, nghị kỵ, thậm chí cả hận thù. Chính sự ly tán của lòng người vẫn còn tiếp tục kéo dài trên một đất nước thống nhất về mặt địa lý từ 46 năm qua đã góp phần làm nên một xã hội trì trệ hôm nay.
Những ngày tháng 4, nhìn về một quá khứ đã xa nhưng cũng thật gần gũi, nhiều hình ảnh trở về trong ký ức và ta vẫn còn xúc động khi nhớ lại một Dương Thu Hương ngồi ôm mặt khóc bên hè phố Sài Gòn, vẫn nghe lòng rộn lên niềm thương cảm đối với đồng bào miền Bắc ruột thịt khi đọc lại tâm tình rất thật của nhà văn Nguyễn Quang Lập viết về một Sài Gòn của những người thua cuộc từng gây nhiều ấn tượng lạ lẫm và tốt đẹp trong anh.
Xin mời các bạn đọc lại những
tâm tình dưới đây của nhà văn họ Nguyễn về ngày 30.4.1975 và những ngày tháng
sau đó.
❁ Lê Nguyễn 25.4.2021/nguoiphuongnam
---------------------------------------------------
SÀI GÒN GIẢI PHÓNG TÔI
❁ Nguyễn Quang Lập
Đã trải qua hàng chục năm kể từ ngày ấy, nhưng những kỷ niệm đó tôi không bao giờ quên. Sài Gòn đã thay đổi tôi, một người đến từ Hà Nội…..
….Mãi tới 30.4.1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là sinh nhật của tôi. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30.4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm cha tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Cha tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”.
Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là “bút nguyên tử”. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành gia vũ trụ, người thường không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến th
Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn Ca số 7. Kết thúc Sơn Ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kỳ nghỉ hè năm sau, tháng 8.1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào.
Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được
gặp Sài Gòn. Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông
bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, tivi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà
giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh
cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi.Thán phục chứ
không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu
tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nylon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nylon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nylon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê: cuốn Tư bản luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác.
Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quan vui vẻ nói, dạ chú, sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người
là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn
lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại
Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi
quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi.
Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết
mình đã được giải phóng.
❁ Nguyễn Quang Lập