Hầu hết chúng ta -- mỗi khi nghẹt mũi, đau nhức hoặc khó chịu trong người -- thường hay uống vài viên thuốc cảm lạnh bán tự do mà chẳng chiu đọc kỹ chỉ dẫn trên nhãn dán. Điều này thật sự không tốt bởi vì nhiều thuốc cảm lạnh (cold medications) không được an toàn như chúng ta tưởng vì chúng có thễ có những tác dụng phụ có hại cho sức khỏe như gián đọan giấc ngủ, gây phụ thuộc thuốc , ngộ dộc thuốc và thâm chí tử vong.
Dưới đây là 6 thuốc cảm lạnh bán tự do nguy hiệm nhất cho sức khỏe
1. Advil
Advil là tên thượng hiệu của ibuprofen, một trong những thuốc giảm đau thông thường nhất mà người ta hay dùng khi cảm thấy khó chịu. Ibuprofen là một thành phần của nhóm thuốc gọi là thuốc chống viêm không steroid (nonsteroidal anti-inflammatory drugs- NSAIDs) có công dụng làm bớt khó chịu bằng cách hạ giảm các hormon gây đau và viêm khắp cơ thể
Advil và các thuốc cùng loại khác đã dược coi như là an toàn trong môt thời gian dài , nhưng vào năm 2015 lập trường của Cơ quan Quản lý Thực phẫm và Dược phẩm (FDA) đã trở thành cứng rắn hơn sau khi duyêt xét các dữ liệu cho thấy có sư liên hệ giữa các thuốc cảm lạnh này với bệnh tim. Không phải tất cà các nghiên cứu đều dẫn tới cùng một kết luận như trên , thế nhưng một duyệt xét "bắt mắt" (one eye-catching review) liên quan tới hơn 116,000 bệnh nhân đã phát hiện là các thuốc NSAIDs tăng nhiều rủi ro xẩy ra các sự cố tim mạch, và đặc biệt ibuprofen đã được cho là có liên hệ cao nhất với tỉ lệ đột quỵ
2. Tylenol PM
Cũng
như nhiều thuốc cảm lạnh, Tylenol PM dựa vào thành phần chính acetaminophen để trị nhức đầu, khó chịu ở cơ bắp và khớp, và giảm sốt. Chất
này hoàn toàn an toàn nếu dùng đúng cách, nhưng nhiều ngưởi đã vượt quá liều
lượng. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phậm (FDA) thì sừ dụng quá nhiều
acetaminophen dẫn đến tổn thương gan do thuốc
Vấn
đề không dừng ỏ đó. ProPublica khi cứu xét ngộ độc thuốc thì đã phát hiện là
acetaminophen có trách nhiệm về nhiều ca tử vong nhất so với các loai thuốc bán
tự do (over the counter drugs) khác. Tuy nhiên khó có thể đưa ra dẫn chứng cụ
thể về điều này. Hấu hết các phát hiện chỉ cho thấy có sự tương quan mà thôi
chứ không nhất thiết có nghĩa là acetaminophen là nguyên nhân gây tử vong.
Trong nhiều trường hợp, người ta hay uống nhiều thứ thuốc cùng một lúc. Một vài
những kết hợp thuốc như vậy có thể gây chết người, nhưng không có thể gán trách
nhiệm tử vong cho một thành phần thuốc riêng biệt nào đó
3. Aspirin
Từ
lâu aspirin được coi như là tiêu
chuẩn vàng để giảm đau và hạ sốt, tuy vậy thuốc này thật ra khá nguy hiểm khi
dùng cho trẻ em. Theo Healthline , dùng aspirin để trị nhiễm vi-rút cho trẻ em làm
tăng nhiều rủi ro bị hội chứng Reye, một chứng bệnh hiếm có, gây tổn thượng nặng
cho gan và lảm xưng não. Vì bất cứ lý do nào, điều này xẩy ra thông thường hơn
nhiều cho trẻ em. Nhiều nhiễm khuẩn như
thủy đậu ( chicken pox) chẳng hạn thoạt đầu có thễ bị nhầm với cảm lạnh, vì vây
không nên cho trẻ en uống aspirin vì nhỡ
chúng mắc phải chứng bệnh nào nghiêm trọng hơn
Ngay
cả đối với nhũng người trên 18 tuổi nhiều,
dùng aspirin cũng có nguy hiểm. Tạp chi The New York Times báo cáo là dùng aspirin lâu dài có thể
dẫn tới chứng loét (ulcer) và tăng rủi ro bị nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Tốt
nhất là chỉ nên bắt đầu với một liều lượng khuyến cáo thấp nhất và chĩ dùng khi
còn cẩn thiết mà thôi
4. NyQuil
Một
số thành phần hoạt tính của NyQuil có thễ dẫn đến ảo giác (hallucination) và
thậm chí động kinh (seizures) khi dùng với liều lượng đủ lớn. Thuốc này cũng
chứa acetaminophen mà nếu dùng quá
liều lượng có thể gây tổn thương cho gan như đã trình bày ở trên.
Cũng
như với Tylenol PM, nhiều người-- mặc dầu hoàn toàn khỏe mạnh-- thường hay uống
NyQuil để cho buồn ngủ . Sở dĩ Nyquil có tác dụng như vậy là nhờ có chứa chất
kháng histamin doxylamine. Mặc dầu
chất này có thể kích thích ngủ khi bạn bị cảm lạnh, nhưng theo American
Family Physician thì thường ra nó không có hiệu lực nhiều mà còn làm giảm
phẩm chất giấc ngủ và có thể làm bạn buồn ngủ cả vào ban ngày. Điều này có
nghĩa là dùng thuốc NyQuil một thời gian lâu dài như là thuốc trợ ngủ có thể vừa
làm cho thuốc mất hiệu lực và vừa gây nghiện thuốc nữa
5. Sudafed Congestion
Đây
là một trong những thuốc trị nghẹt mũi (nasal congestion) hiệu nghiệm nhất do
khả năng làm cho các mạch máu trong mũi thu hẹp lại. Sudafed còn là một thuốc
được các nhà thuốc kiểm soát chặt chẽ: mặc dầu thuốc có thể bán không cần toa
bác sĩ nhưng bạn chĩ có thễ được mua một số lượng nhất định và trực tiếp qua dược sĩ phụ trách. Lý do là vì thành
phần chính của thuốc Sudafed là pseudoephedrine, chất này có thễ chuyễn hóa thành
methamphetamine
Mặc
dầu chẳng mấy ai nghĩ tới việc biến chế Sudafed ra thành meth, nhưng một số người
có thể dùng thuốc này quá liều lượng để được "phê" (get high). Và
trong một số trường hợp, điều này không tốt cho tim. Một phân tích tổng hợp
nhiều nghiên cứu đã phát hiện là chất pseudoephedrine có liên hệ với sự tăng vừa
phải cao huyết áp và nhịp tim. Thế nhưng đối với một số người huyết áp tăng quá
mức an toàn
Ngoài ra chất pseudoephedrine cũng còn có thể tương tác với bất cứ thuốc nào khác bạn đang uống. Theo Everyday Health thuốc trị nghẹt mũi này có thể tương tác với các thuốc chống trầm cảm và các thuốc trị ADHD (Attention Deficit Hyperactivity Disorder). Vì vậy tốt nhất trước khi dùng Sudafed bạn nên hõi ý kiến bác sĩ
6. Thuốc ho & cảm lạnh Dimetapp cho trẻ em
Vấn
đề của thuốc Dimetapp dành cho trẻ em và các sản phẩm tương tự là bên trong các
thuốc này có chứa dextromethorpan; chất
này có thể ức chế ho nhưng lại khó được chuyển hóa (metabolizing) bởi các trẻ
em nên dễ dẫn tới ngộ độc (toxicity)
Khuyến
cáo hiện nay là tránh không cho các trẻ em dưới 2 tuổi uống si-rô ho, nhưng
theo Mayo Clinic nghiên cứu
đang được tiến hành để quyết đinh xem có nên dùng cho các trẻ em lớn tuổi hơn
hay không. Trong nhiều trưởng hợp, có nhiểu phép trị liệu khác cũng hiệu nghiệm
như Dimetapp, chẳng hạn như dùng máy giữ ẩm (humidifier) cũng như các thuốc nhỏ
mũi (nasal drops)
Đáng ngạc nhiên là si-rô ho thậm chí còn nguy hiễm hơn đối với các trẻ em lớn tuổi vì nguy cơ lạm dụng (abuse). Philly.com cho biết điều này xẫy ra thông thường nhiều hơn là người ta nghĩ và có thể dẫn tới động kinh, hôn mê hoặc tử vong. Mặc dầu đã có bằng chứng cho thấy việc lạm dụng dextromethorpan đã giảm, nhưng một số rủi ro hãy còn đó