THẦM LẶNG
...thầm lặng theo ông đến những ngày cuối đời
Mời đọc một truyện cảm động về nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Một đời thầm lặng mẹ theo bố.
Tháng
9 năm 1954 mẹ theo bố vào Nam. Trước đó bố hoạt động ngang dọc, sáng
ngời lý tưởng, rồi ê chề thất vọng. Quyết định vào Nam là của bố, mẹ chỉ
bế hai con và dắt cô em chồng 17 tuổi theo. Trong Nam, bố tưng bừng
thi thố tài năng, tay phấn tay bút. Mẹ thầm lặng ở nhà nuôi dạy con và
chăm chút em. Dân số con từ hai tăng thành tám. Tám con tám tính, có
lúc hư lúc ngoan; mẹ theo từng bước, khen chê mắng mỏ. Cô em chồng tốt
nghiệp đại học, chuẩn bị lên xe hoa, mẹ lo toan chuyện cưới hỏi. Bố vất
vả bên ngoài, về nhà chỉ cần đảo mắt nhìn là thấy mọi sự tươm tất. Ra
đường, các con được gọi là “con bố”, em là “em anh”, không
Vào
những năm thăng tiến trong cả hai nghề dạy và viết, bố hay mời khách về
nhà đãi đằng. Mẹ tiếp khách lịch thiệp, rồi rút về hậu trường trổ tài
nấu nướng. Trước khi ra về các bác bao giờ cũng chào “bà chủ” trong
tiếng cười hỉ hả “Cám ơn chị cho một bữa ngon quá.” Thỉnh thoảng có
những vị khách nữ, khen thức ăn và khen cả ông chủ. Tôi còn nhớ có
người còn nói rất chân tình với mẹ: “Chồng em mà được một phần của anh
thì em chết cũng hả.” Hình như mẹ đón nhận lời nói ấy như một sự khen
tặng cho chính mình.
Rồi
chính sự miền Nam nóng bỏng; ngòi bút bố cũng nóng theo. Các bạn bố đến
chơi chỉ bàn chuyện cộng sản và quốc gia. Mẹ không mấy quan tâm đến
“chuyện các ông”, nhưng khi bố đi Mỹ du học, mẹ ở nhà điều hành việc bán
sách thật tháo vát. Khoảng hai tuần một lần, mẹ đi xích lô đến trung
tâm Saigon, rảo một vòng các tiệm sách để xem họ cần thêm sách nào. Sau
đó mẹ cột sách thành từng chồng và “đáp” một chuyến xích lô khác để
giao sách. Tôi hay mân mê những sợi giây được cột chắc nịch, suýt xoa:
“Sao mẹ cột chặt hay thế"”
Thế
rồi chính sự miền Nam đến hồi kết thúc. Con người không chính trị của
bố lại một lần nữa ê chề.. Ngày công an đến bắt bố đi, mẹ con bàng
hoàng nhìn nhau. Các con chưa đứa nào đến tuổi kiếm tiền. Mẹ xưa nay
thầm lặng trong vai “nội tướng”, giờ miễn cưỡng ra quân. Tiền dành dụm
của gia đình không đáng kể. Có tám miệng để nuôi, có bố nhục nhằn trong
lao tù đợi tiếp tế. Mẹ vụng về tìm kế sinh nhai. Thoạt tiên mẹ nấu
khoai mì trộn với dừa và vừng, rồi để vào rổ cùng với một ít lá gói. Tôi
băn khoăn hỏi:
“ Mẹ nghĩ có bán được không"”
“Mẹ không biết, cứ mang ra chỗ trường học xem sao.”
Nhìn
dáng mẹ lom khom ôm rổ, đầu đội xụp cái nón lá, tôi thương mẹ khôn tả.
Chỉ nửa tiếng sau tôi đã thấy mẹ trở về. Rổ khoai mì vẫn còn nguyên, mẹ
ngượng ngập giải thích:
“Hình như hôm nay lễ gì đó, học trò nghỉ con ạ.”
Rồi
mẹ lại xoay sang nghề bán thuốc lá.. Mẹ mua lại của ai đó một thùng
đựng thuốc lá để bầy bán. Mẹ nghe ai mách bảo, chọn một địa điểm khá xa
nhà rồi lụi hụi dọn hàng vô, dọn hàng ra mỗi ngày. Nghề này kéo dài
được vài tháng. Mẹ kể cũng có một số khách quen, nhưng toàn mua thuốc lá
lẻ. Hôm nào có khách “xộp” mua nguyên bao thì mẹ về khoe ngay. Cũng may
thuốc lá không thiu nên khi “giải nghệ” mẹ chỉ lỗ cái thùng bầy
hàng...
Mẹ
rút về “bản dinh” là căn nhà ở cuối hẻm, tiếp tục nhìn quanh, tìm một
lối thoát. Hàng xóm chung quanh phần lớn là những người lao động. Họ
như những đàn kiến chăm chỉ cần cù, 4 giờ sáng đã lục đục, người chuẩn
bị hàng họ ra chợ, kẻ kéo xe ba bánh hoặc xích lô ra tìm khách. Suốt
mười mấy năm qua họ nhìn gia đình chúng tôi, gia đình “ông giáo”, như
từ một thế giới khác, kính trọng nhưng xa cách. Nay “ông giáo” đi tù,
“bà giáo” hay xuất hiện ngoài ngõ, có lẽ họ cảm thấy gần gủi hơn. Một
hôm, chị bán sương xâm ở đối diện nhà qua hỏi thăm “ông giáo”. Thấy cái
máy giặt vẫn còn chạy được, chị trầm trồ: “Giặt máy tiện quá bác há!”,
rồi nảy ý “Tụi con ngày nào cũng có cả núi quần áo dơ. Bác bỏ máy giặt
dùm, tụi con trả tiền. Bác chịu không"” Lời đề nghị thẳng thừng, không
rào đón. Mẹ xăng xái nhận lời. Kể từ đó, mổi tuần khoảng hai lần, mẹ
nhận một thau quần áo cáu bẩn, bốc đủ loại mùi khai, tanh, nồng. Mẹ
đích thân xả qua một nước, rồi múc nước từ hồ chứa vào máy giặt, bỏ xà
bông và bắt đầu cho chạy máy. Cái máy cổ lỗ sĩ, chạy ì ạch nhưng nhờ nó
mà mẹ kí cóp được chút tiền chợ.
Ít lâu sau, cũng chị hàng xóm đó lại sáng thêm một ý nữa:
“Con
bé nhà con nay biết bò rồi, con không dám thả nữa. Bác nhận không, con
gửi nó mỗi ngày từ sáng tới chiều. Con trả tiền bác.”
Thế
là sự nghiệp nhà trẻ của mẹ bắt đầu. Mẹ dọn căn gác gỗ cho quang, có
chỗ treo võng, có cửa ngăn ở đầu cầu thang. Cả ngày mẹ loay hoay bận bịu
pha sữa, đút ăn, lau chùi những bãi nước đái. Được ít lâu, chị bán trái
cây ở cuối hẻm chạy qua nhà tôi, nói:
“Bác coi thêm con Đào nhà con nha. Con mang cái võng qua mắc cạnh cái võng của của con Thủy.”
Hai
võng đong đưa một lúc, cháo sữa đút liền tay hơn, căn gác bừa bộn hơn.
Sau đó lại thêm một thằng cu nữa. Mẹ tay năm tay mười, làm việc thoăn
thoắt. Cũng công việc quen thuộc ấy, ngày xưa làm cho con, nay làm kế
sinh nhai, nuôi đủ tám con với một chồng. Mẹ không còn thầm lặng nữa.
Mẹ lớn tiếng điều khiển tám quân sĩ, cần roi có roi, cần lời ngọt có
lời ngọt. Riêng chúng tôi vẫn nhớ ơn những người lao động đã giúp chúng
tôi sinh sống những ngày khốn khó đó...
Nhưng
sau những giờ ban ngày ồn ào náo động là những đêm tối trầm ngâm lo
lắng. Nỗi bận tâm không rời của mẹ là chuyện thăm nuôi bố. Mỗi ngày mẹ
nghĩ ra một món, làm dần vào buổi tối, nay muối vừng, mai mắm ruốc, mốt
bánh mì khô. Mẹ để sẵn một giỏ lớn trong góc bếp và chất dần đồ thăm
nuôi trong đó. Khi giỏ đầy là ngày thăm nuôi sắp tới. Thuở ấy bố bị giam
ở núi đồi Pleiku, muốn lên đến đó phải mất hai ngày đường và nhiều giờ
chầu chực xe đò. Mỗi lần thăm nuôi, hoặc mẹ, hoặc một đứa con được chỉ
định đi. Con trưởng nữ hay được đi nhất vì nó tháo vát và nhanh trí,
thằng thứ nam cũng đươc nhiều lần “tín nhiệm”; mẹ nói nó nhỏ tuổi nhưng
đạo mạo, đỡ đần mẹ được. Con thằng trưởng nam đúng tuổi đi “bộ đội”, mẹ
ra lệnh ở nhà. Có lần mẹ đi về, mặt thất thần. Các con hỏi chuyện thì
mẹ chỉ buông hai chữ “biệt giam”. Biệt giam thì bị trừng phạt không được
thăm nuôi. Tôi thảng thốt hỏi:
“Đồ thăm nuôi đâu hết rồi mẹ"”
“Mẹ phải năn nỉ. Cuối cùng họ hứa chuyển đồ ăn cho bố.”
“Mẹ nghĩ họ sẽ chuyển không"
“Họ hẳn sẽ ăn bớt, nhưng nếu mẹ mang về thì phần bố đói còn chắc chắn hơn nữa.”
Mẹ ngày nào thầm lặng, nay thực tế và quyết đoán như thế.
Ngày
bố được thả đợt 1, nhà trẻ của “bà giáo” vẫn còn hoạt động. Mẹ hướng
dẫn bố đu võng khi các bé ngủ. Mẹ cũng dặn bố thường xuyên lau chùi gác
và bỏ giặt tã dơ. Bố một mực nghe lời. Tưởng như cờ đã chuyền sang mẹ
một cách êm thắm…
Tuy
nhiên, mẹ không thể ngăn được bố lân la cầm lại cây bút. Thời gian này
là lúc họ hàng ngoài Bắc vào chơi nhiều. Bên ngoại có cậu tôi làm đến
chức thứ trưởng; cậu kể rằng lúc còn sống, ông ngoại (một nhà thơ cách
mạng) phiền lòng vì sự nghiệp văn chương của thằng con rể. Bên nội có
chú tôi - một nhạc sĩ cách mạng- chú biết ngòi bút đang thôi thúc bố và
đã từng rít lên giữa hai hàm răng:
“Trời
ạ! Đã chửi vào mặt người ta, không xin lỗi thì chớ lại cón nhổ thêm
một bãi nước bọt! Lần này mà vào tù nữa thì mọt gông.” .
Mấy
mẹ con chết lặng trước viễn tượng “mọt gông”. Bố không màng đến điều
này, vẫn miệt mài gõ máy đánh chữ. Đêm khuya thanh vắng tiếng gõ càng
vang mồn một. Vài lần mẹ can ngăn, có lần mẹ giận dữ buộc tội:
“Ông chỉ biết lý tưởng của mình, không biết thương vợ con.”
Vài tuần sau, chị hàng xóm đối diện nhà chạy sang xì xào với mẹ:
“Công an đặt người ở bên nhà con đó bác, họ theo dõi bác trai.”
Mẹ
lại thử can thiệp, nhưng đã quá trễ. Bố bị bắt lần thứ hai năm 1984.
Lần thứ hai bị bắt, bố bình tĩnh đợi công an lục lọi tung nhà. Trước khi
bắt đi, họ chụp hình bố với nhiều tang chứng chung quanh. Trong hình
bố ngẩng cao đầu trông rất ngạo nghễ. Nhiều năm sau, bố vẫn còn được
nhắc tới với hình ảnh này. Không ai biết đến người đàn bà thầm lặng bị
bỏ lại đằng sau. Sau biến cố thứ hai này, mẹ phải đối phó thêm với nhiều
khó khăn loại khác, điển hình là những giấy gọi gia đình ra dự phiền
tòa xử bố. Gọi rồi hoãn, rồi lại gọi lại hoãn. Mỗi lần như vậy cả nhà
lại bấn loại tâm trí, lo cho mạng sống của bố. Riêng mẹ thì vừa lo vừa
soạn thêm một số thức ăn thăm nuôi. Mẹ thực tế là thế đó.
Sau
khi bố bị gọi án 10 năm tù, cuộc sống của mẹ không còn những bất ngờ
khủng khiếp, chỉ còn những đen tối và tù túng đều đặn. Tưởng là dễ chịu
hơn, nhưng thực ra nó gậm nhấm tâm thức, tích lũy buồn bực chỉ đợi cơ
hội bùng nổ.. Hết ngày này qua tháng nọ mẹ lầm lũi chuẩn bị đồ thăm
nuôi, từng món ăn thức uống, từng vật dụng hằng ngày. Các con lần lượt
trưởng thành, đứa nào cũng có bạn bè và những sinh hoạt riêng.
Chuyện
thăm nuôi bố và lòng thương bố quan trọng lắm, những cũng chỉ là một
phần trong những cái quan trọng khác trong đời. Chỉ đối với mẹ, những
thứ ấy mới là tất cả, độc tôn choán ngập tâm hồn mẹ. Mẹ hẳn có những
lúc thấy tức tưởi và cô đơn mà các con nào hay biết. Có vài lần chúng
tôi lỡ một lời nói hoặc cử chỉ không vừa ý mẹ, me òa khóc tu tu, lớn
tiếng kể lể, tuôn trào như một giòng lũ không ngăn được. Lúc ấy chúng
tôi mới choàng tỉnh.
Ngày
mãn hạn tù về, bố bình an như một thiền sư, để lại sau lưng hết cả
những thăng trầm của quá khứ. Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston sống cùng cậu
trưởng nam. Mẹ bận bịu với cháu nội, nhưng không quên nhắc ông nội đi
tắm và bao giờ cũng nặn kem đánh răng vào bàn chải cho ông mỗi tối.
Thỉnh thoảng giao tiếp với họ hàng và bạn bè, mẹ lại phải đỡ lời cho bố,
khi bố cứ mỉm cười mà không nói năng chi. Thư viết về cho con cháu ở
VIệt Nam, ai cũng nói mẹ viết hay hơn ông nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Lúc đó
chắc mẹ tự nhủ thầm rằng: “bởi vì mẹ là con của ông Tú Mỡ mà!”
Như
thế được mười năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai đoạn cuối của căn
bệnh Alzheimer, mẹ nằm bất động một chỗ và không nói được nữa. Nhưng mẹ
vẫn đưa mắt nhìn bố mỗi lần bố ra vào trong phòng. Hôm nào bố vắng nhà
vài ngày thì mẹ nhìn con trai, mắt dò hỏi lo lắng. Khi bố về thì mẹ vẫn
nhìn bố, ánh mắt yên tâm hơn. Mẹ thầm lặng hơn bao giờ hết. Dưới mắt bố
con chúng tôi, sự thầm lặng ấy càng ngày càng tỏa sáng.
Kim Khánh (bài do bạn Mậu Trần giới thiệu)