Muối diêm:
Muối diêm còn được biết với cái tên khoa học
là Nitrate NO3 và Nitrite NO2. Nó được dùng làm chất bảo quản thịt
được chế biến như dồi xúc xích, ham, jambon, lạp xưởng, nem chua. Với
những thông tin cho rằng nó là chất gây ung thư cần tránh. Thực sự như
thế nào??
.
Dù muốn dù không, thực phẩm mà chúng ta tiêu
thụ hàng ngày rất nhiều muối diêm. Rau xanh, cà rốt, celery, củ dền
hay beet chứa nhiều nitrate hơn là thịt cá được chế biến vì trong đất
trồng trọt có rất nhiều nitrate.Rau củ hữu cơ organic thì chứa ít
nitrate hơn. Nói chung là nitrate mà chúng ta nhận vào từ rau củ
chiếm khoảng 80% trong khi đó chỉ có 5% từ thịt cá chế biến.
.
Thế tại sao muối diêm trong thịt cá lại đáng
ngại hơn từ rau củ.
Người ta phải dùng nitrite để giết vi khuẩn khi
chế biến lạp xưởng, xúc xich, jambon và làm cho thịt có màu hồng
đẹp mắt. Nitrate cũng dùng để ướp thịt làm jambon khi qúa trình này
kéo dài cả năm, và nitrate từ từ biến thành nitrite. Nếu không có
nó, người tiêu thụ sẽ dễ dàng bị nhiễm độc thực phẩm do vi trùng
Clostridium Botulinum. Khi chúng ta ăn những thực phẩm chế biến
này có chứa nitrate, vi khuẩn trong miệng chúng ta cũng biến nitrate
thành nitrite. Và khi chúng ta nuốt thịt với nitrite này vào dạ dày,
nơi có độ cường toan cao, nitrite kết hợp với amino acid của thịt cá
biến thành nitrosamine. Nitrosamine là chất gây ung thư. Hiện tượng này
không xảy ra với nitrate có trong rau củ vì rau củ không có chất đạm
protein. Và vitamin C, polyphenols trong rau củ ức chế phản ứng hoá học
biến nitrate thành nitrite. Vì thế khi ướp thịt với nitrite, nhà sản
xuất cũng thêm sodium ascorbate, (một dạng muối của vitamin C), và
sodium erythobate để chống chuyển hóa nitrite thành nitrosamine. Một
điều lưu ý là món nem chua của Việt Nam, chẳng hạn nem chua Thủ Đức,
cũng dùng nitrite để ướp thịt và có vị chua nhưng không phải chua vì
chứa vitamin C. Như thế nó có nhiều khả năng biến thành nitrosamine khi
ăn. Chưa thấy ai nghiên cứu về món này.
.
Nitrite cũng biến thành nitrosamine khi thịt
chế biến công nghiệp được nấu nướng với nhiệt độ cao, như chiên hay
nướng lạp xưởng, bacon, xúc xích với lửa cao để làm chảy hết mỡ ra
vì không muốn ăn nhiều dầu mỡ chẳng hạn
.
Tuy nitrosamine được chứng minh là chất có
nguy cơ gây ung thư đại tràng hay dạ dày nhưng không phải lúc nào cũng
bị. Nếu ngày nào cũng ăn ba hay bốn lát bacon thì nguy cơ cũng chỉ 6
hay 7%. Còn một tuần ăn một lần hai ba lát thì không đáng ngại.
.
Nitrate và nitrite tuy mang tiếng xấu vì có
thể biến thành nitrosamine gây ung thư, nhưng nó cũng là chất tiền thân
của nitric oxide có lợi cho tim mạch, làm giãn mạch máu, tránh tắc
nghẽn động mạch. Bình thường cơ thể chúng ta có khả năng tự tạo
nitric oxide từ arginine. Nhưng khi lớn tuổi, khả năng này giảm đi. Và
nguồn cung cấp nitric oxide dồi dào chính là nitrate hiện diện trong
rau củ. Hàm lượng hấp thụ hàng ngày chấp nhận (acceptable daily
intake) được của nitrate là 235mg/ 140lb cơ thể. Nếu hấp thu 300-400 mg
nitrate thì có thể làm trụy huyết áp. Điều này xảy ra cho nhiều
người uống nước củ dền (beetroot juice) qúa nhiều . Nitrate chỉ gây ngộ
độc nếu hấp thụ trên 2000mg.
.
Vì thế đừng sợ qúa đáng chất muối diêm
nitrate. Cái quan trọng là phải biết nguồn gốc nó từ đâu? Từ rau củ
hay thịt chế biến. Và dĩ nhiên nên hạn chế thịt chế biến như dồi,
lạp xưởng, jambon, và nếu chiên hay nướng chúng đừng để nhiệt độ qúa
cao đến nỗi cháy nám thịt.
.
Hàn the:
Hàn the còn có tên là Borax, gồm phức hợp
các muối của boric acid. Khác với muối diêm chỉ có vài ứng dụng
trong chất nổ, nông nghiệp, và bảo quản thịt chế biến, Borax có
nhiều ứng dụng hơn. Nó được dùng trong chất giặt tẩy, mỹ phẩm,
tráng men đồ gốm, luyện kim, sản xuất sợi thủy tinh, làm chất chống
cháy, giết côn trùng như gián, kiến, và diệt nấm mốc.
.
Vì có thể diệt nấm mốc nên nó cũng được
dùng như chất gia phụ trong bảo quản thực phẩm. Nhưng ngày nay nó bị
loại bỏ khỏi chức năng này ở nhiều nước trên thế giới trong đó có
Mỹ, Canada, và các nước tiên tiến khác. Tuy nhiên có một ngoại lệ là
nó được dùng trong chế biến món caviar hay trứng cá muối ở các nước
quanh vùng Địa Trung Hải, Hắc hải, Caspian sea. Trứng salmon (cá
hồi) và sturgeon (cá Tầm) được ướp muối và trộn bột borax với tỉ lệ
cho phép tối đa là 4 gram borax/ 1 kg trứng cá. Với tỉ lệ này thì
không gây nguy hại đến sức khỏe người tiêu thụ và thực tế không ai ăn
hết cả một kí lô trứng cá sturgeon caviar với cái gía trung bình
1000-4000 đôla/kg.
.
Borax có độc hại không.
Dĩ nhiên là có nên
nó mới được dùng để diệt gián kiến. Thử nghiệm trên chuột cho thấy
liều tử vong 50% còn gọi là LD50 là 2.66g/kg cơ thể. (LD50 viết tắt
của lethal dose 50%). Như vậy nó không được xem là chất nguy hại chết
người. Không ai thử thí nghệm liều tử vong trên người. Nếu giả dụ
LD50 của người cũng giống như của chuột thì một người 50 kg phải ăn
130 gram borax mới có thể chết. Điều này không xảy ra khi ăn thịt
cá có chứa lượng nhỏ borax như carviar.
.
Khi ngộ độc cấp tính borax qua đường tiêu hóa
gây triệu chứng là buồn nôn, ói mửa, đau bụng, tiêu chảy, nếu nặng
hơn thì nhức đầu, đờ đẫn, da lòng bàn tay, bàn chân ửng đỏ như miếng
thịt bò gọi là beefy red skin rash.Ngộ độc cấp tính rất hiếm xảy
ra.
.
Nếu tiếp xúc thường xuyên lâu dài, borax hay
boric acid có thể ảnh hưởng lên cơ quan sinh sản và thai nhi.
Nhưng chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
.
Khác với muối diêm, borax không thấy báo cáo
là chất gây ung thư.
.
Tại sao một số nhà sản xuất mì sợi, bò
viên, giò chả lại pha hàn the?
.
Trong qúa trình làm mì sợi, người ta phải
nhồi bột mì rất nhiều lần, đập, ném cục bột lên bàn cả trăm lần,
thậm chí dùng cây đập đánh cục bột, cán mỏng, kéo sợi v.v...Việc
nhồi, đập đánh cục bột mì nhằm mục đích biến protein của bột mì
hóa thành gluten, làm cho sợi mì trở nên dai. Để tiết kiệm thời gian
và sức lực, người ta lại pha thêm borax vào bột mì để làm
sợi mì trở nên dai như cách làm cổ truyền. Cách làm cho bánh
phở hay hủ tíu dai cũng tương tự như thế
.
Tương tự, trong việc làm giò chả truyền
thống người ta dùng cối chày giã thịt heo tươi mới hạ sát cho
nhuyễn, thêm nước mắm và gia vị rồi gói lá chuối đem luộc. Việc giã
thịt không làm nát thịt và giữ nguyên vẹn sợi thớ thịt, chúng quyện
lại với nhau làm cho giò sau khi luộc chín trở nên hơi dai. Nhưng ngày
nay phần lớn là xay thịt heo thay vì giã kiểu cổ truyền vốn tốn kém
thời gian và công sức. Việc xay thịt thì không thể giữ nguyên sợi thớ
thịt nữa, nên giò cũng kém dai. Vì vậy người ta lại cho thêm tí hàn
the để làm cho giò dai lại. Việc làm cho bò viên dai cũng thế.
.
Vậy tại sao muối diêm được phép xử
dụng trong chế biến thực phẩm mà hàn the lại bị cấm hay hạn chế?
Nên nhớ muối diêm tự bản thân nó không gây ung thư mà chỉ có thành
phẩm nitrosamine của nó do nấu nướng qúa nóng mới là tác nhân gây ung
thư. Nếu nấu nướng đúng cách thì muối diêm vấn an toàn. Hàn the tuy
không gây ung thư, không phải là độc tố nguy hiểm nhưng bị cấm hay hạn
chế vì nó có tác hại lên khả năng sinh sản và sức khỏe thai nhi, và
như thế ảnh hưởng đến vấn đề dân số xã hội. Ở cái tuổi đang lên
lão đã có con cháu thì nhấm nháp caviar hay nhỡ có ăn mấy món Á
đông có chút ít hàn the chắc cũng không có gì đáng lo lắm. Nhưng nếu
nấu nướng món gì có dính líu hàn the thì khuyến cáo thế hệ con
cháu hay lớp trẻ nên tránh.
.
Vũ Quốc
Bảo -
Đặng Hoàng Sơn / nguoiphuongnam