Mật được gan bao bọc như bà mẹ ôm con trong lòng. Y Khoa Đông Phương gọi mật là đởm và gan là can.
Đởm thuộc phủ và gan thuộc tạng. Hai tạng phủ này có liên lạc chặt chẽ với nhau về vấn đề âm dương, về sinh lý cũng như bệnh lý. Cho nên khi nói can đởm là nói tới gan và mật. Tạng phủ này rất đặc biệt trong lục phủ và ngũ tạng của con người.
Chức năng của gan và mật
Gan tạo ra mật, mật chất cực kỳ quan trọng để hấp thụ chất béo. Mật còn giữ vai trò giải độc cho gan bằng cách tẩy độc xuống ruột non. Tại đây, mật thực hiện tiến trình đưa nước vào phân, làm cho phân trở nên mềm, xốp, đồng thời nhờ chất xơ do chúng ta ăn từ thực vật hút lấy độc tố, cholesterol và mỡ thải theo phân ra ngoài. Nếu chúng ta ăn thiếu chất xơ, những chất độc và cholesterol không theo chất cặn bã thải ra ngoài được, đi ngược vào máu, trở lại về gan, chúng ta bị cholesterol cao hay mỡ cao.
Một khi việc tiết mật bị trở ngại, chất độc sẽ tồn đọng lâu ngày trong gan, làm cho gan bị suy yếu và mất khả năng thanh lọc chất độc trong máu khi chúng ta ăn phải những thức ăn không tinh khiết, hay có đôc chất. Uất mật, phần lớn do tắc nghẽn ống mật, làm cản trở lưu lượng mật chuyển vào gan. Tắt nghẽn ống mật thường do sạn mật hay viêm ống dẫn mật gây ra.
Sạn mật còn gọi là sỏi mật, trong lâm sàng, thường thấy các tác nhân sau đây góp phần làm gia tăng khả năng tạo sạn mật và tăng cholesterol:
-Về giới tính: Theo thống kê mới nhất ở Hoa Kỳ, tỷ lệ phụ nữ bị sạn mật cao hơn đàn ông từ 2 tới 4 lần. Chẳng hạn như uống thuốc ngừa thai là nguy cơ dẫn tới tạo sạn mật.
-Chủng tộc: Tại Hoa Kỳ, phụ nữ da trắng trên 30 tuổi, chiếm tỷ lệ gần 70%, bị sạn mật. Ngược lại chỉ có 10% thuộc phụ nữ da đen bị sạn mật ở vào lớp tuổi trên 30. Sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa hai nhóm phụ nữ cho thấy yếu tố nhân chủng và di truyền đã phản ảnh khá đặc trưng tính bảo hòa cholesterol của mật. Tuy nhiên sự ăn uống thích hợp có thể làm đảo lộn tính chất trên.
-Béo phì: Béo phì luôn đi đôi với việc tăng tiết cholesterol trong mật, một hậu quả hiển nhiên làm gia tăng nguy cơ tạo sạn mật.
-Tuổi đời: Sạn mật được báo cáo bám sát con người từ lúc chào đời cho tới lúc tuổi già, nhưng phần đông thường từ 40-50 tuổi. Theo thống kê, tuổi càng cao có nguy cơ bị sạn mật càng nhiều.
-Cũng theo nghiên cứu tại Hoa Kỳ: Người nào, quốc gia nào trọng dụng mỡ động vật, thịt có mỡ, tỷ lệ bị sạn mật cao hơn đối với cư dân ở những vùng, những quốc gia tiêu thụ nhiều rau xanh hơn thịt. Chất xơ trong rau xanh có khả năng đưa những cholesterol thặng dư ra ngoài, làm giảm hình thành sạn mật.
Viêm túi mật mãn tính chuyển qua cấp tính có kèm theo sạn mật
Triệu chứng: Ấn hạ sườn phải cảm hơi đau, cảm giác đau âm ỉ lan tới vai lưng, cơn đau kéo dài vài giờ đến vài ngày, dễ tái phát. Bụng trên cảm thấy no đầy, biếng ăn, miệng đắng, họng khô, nôn hoặc buồn nôn, ấn đau vùng túi mật, sợ mỡ. Nếu tắt nghẽn mật thì da vàng, nước tiểu vàng, siêu âm thấy hình thể và kích thước túi mật và sạn mật. Do can đởm uất trệ. Rêu lưỡi trắng, hoặc hơi vàng. Mạch huyền.
Chủ trị: Xơ can, lợi đởm, hóa ứ trị thống, tiêu sạn.
Bài thuốc
-Sài hồ 12 grs
-Hoàng cầm 9 grs
-Chế bán hạ 9 grs
-Bạch thược 9 grs
-Chỉ thực 9 grs
-Hương phụ 9 grs
-Đại phúc bì 9 grs
-Mộc hương 9 grs
-La bạc tử 9 grs
-Diên hổ sách 9 grs
-Trạch lan 12 grs
-Đại hoàng 9 grs
-Tam thất 6 grs
-Sinh khương 9 grs
-Kim tiền thảo 9 grs
-Đại táo 3 trái
Chủ trị:
-Sài hồ, bạch thược: Xơ gan.
-Hoàng cầm: Hóa thấp.
-Bán hạ: Trị nôn, mửa.
-Chỉ thực, hương phụ, mộc hương, la bạc tử: Tản khí và giáng khí trung tiêu, trị đầy hơi, sình bụng, ợ hơi, tức giang sườn.
-Đại phúc bì: Giáng khí.
-Diên hổ sách, tam thất, trạch lan: Tán uất, thanh nhiệt, thông tiểu, tan san túi mật và ống dẫn mật.
-Đại hoàng: Trị bón.
-Sinh khương: Ôn trung, kiện toàn tiêu hóa, trị nôn mửa.
-Kim tiền thảo: Trị tiểu gắt, tan sạn.
-Đại táo: Phối hợp các vị thuốc.
Sạn mật
Sạn mật hay sỏi mật là sự tích tụ của cholesterol và sắc tố mật kết hợp với nhau lâu ngày cô đọng lại thành những cục, khối, miếng ở bên trong túi mật. Kích thước của những khối này có thể nhỏ bằng những đầu kim, nhưng cũng có thể to bằng quả bóng ping pong. Sạn mật có thể đóng khối ở bất cứ nơi nào trong hệ thống mật, túi mật hoặc ống dẫn mật. Tuổi trung niên, từ 40 trở lên, dễ bị san mật hơn tuổi thiếu nhi, thanh niên. Phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Thình lình phát cơn đau dữ dội ở vùng hạ sườn phải, đau xuyên lên vùng vai phải, ấn càng đau dữ, sốt cao, kèm theo cơn rét, miệng đắng, họng khô, nước tiểu vàng, táo bón. Lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Mạch huyền sác.
Chủ trị: Xơ can, lợi đởm, lý khí, giải uất, thanh thấp, hóa nhiệt.
Bài thuốc
-Sài hồ 9 grs
-Nga bất thực thảo 12 grs
-Diên hổ sách 6 grs
-Kim tiền thảo 12 grs
-Xuyên luyện tử 9 grs
-Hoàng cầm 9 grs
-Uất kim 9 grs
-Thông thảo 9 grs
-Bồ công anh 9 grs
-Nhân trần 9 grs
Chủ trị:
-Sài hồ: Xơ gan.
-Nga bất thực thảo, diên hổ sách, kim tiền thao, xuyên luyện tử: Thanh nhiệt, tiêu viêm, thông tiểu, tán uất, tan sạn.
-Hoàng cần: Hóa thấp.
-Thông thảo: Thanh nhiệt, trị tiểu tiện khó.
-Bồ công anh: Dưỡng gan.
-Uất kim: Phá uất, tan sạn.
Đối với y khoa hiên tại, thường mổ để cắt lấy mật ra. Tuy nhiên nếu chúng ta dùng thuốc để tống sạn ra mà vẫn giữ được mật thì tốt cho hệ thống tiêu hóa hơn.
Bác Sĩ Đặng Trần Hào/ nguoiviet