Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2018

Điều trị và phòng ngừa cúm

Cúm (tiếng Mỹ gọi là “flu” hay “influenza”), cũng là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như cảm, tuy nhiên nó thường nặng hơn cảm. Nó thường xảy ra trong các cơn dịch địa phương, và thường lên đến cao điểm vào mùa Đông, hầu như hằng năm. Khi lan tràn toàn thế giới, nó có thể tạo thành đại dịch. 
Cách điều trị cúm
Trong cả hai bệnh cảm và cúm, nâng đỡ sức đề kháng của cơ thể và trị triệu chứng đều là điều rất quan trọng.
Chính sức đề kháng của cơ thể là thành phần chính chống chọi với vi rút cảm và cúm. Do đó, ta cần chú ý nâng đỡ sức đề kháng của mình bằng cách:

– Uống đủ nước
– Nghỉ ngơi đầy đủ
– Ăn uống dễ tiêu và cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể bằng cách nấu thức dễ tiêu hoá, bổ dưỡng, ăn mỗi lần một ít nhưng ăn nhiều lần hơn.
Ngoài ra, ta có thể trị triệu chứng bằng cách:
– Súc miệng và họng bằng nước muối ấm và loãng. Cần chú ý là nên pha nước muối chỉ lạt như nước mắt của ta, nếu mặn quá sẽ làm khó chịu, kích thích niêm mạc cổ họng, có thể làm ho nhiều hơn.
– Uống thuốc giảm đau, giảm sốt (nhớ tránh aspirin ở trẻ em).
– Thuốc uống khô mũi, thuốc ho.
– Xông mũi bằng nước ấm.
Cần chú ý là trái với nhiều người tin tưởng, rất nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc trụ sinh và vitamin C không giúp làm cho cảm và cúm mau hết hơn. Ngay cả, nếu nước mũi đổi màu, đó cũng không phải là dấu hiệu cho thấy ta cần trụ sinh.
Ta nên đi thăm bác sĩ nếu có sốt cao, đau vùng xoang, khó thở, đau nhức mình mẩy quá nhiều.
Nên đi sớm, vì nếu đó là cúm, tốt nhất là bắt đầu thuốc trị cúm trong vòng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên, (dù rằng bắt đầu trể hơn cũng có tác dụng, dù là kém hơn,) nhất là ở những người già yếu.
Thuốc chống virus cúm có thể làm nhẹ và giảm bớt thời gian bị cúm khoảng 2 ngày. Thuốc cần do bác sĩ kê toa (sau khi thăm khám).
Làm sao để phòng cúm?
Cúm lây sang người khác thường nhất bằng các tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết (như nước mũi) của người bệnh, có thể là từ tay người này sang tay người khác, hoặc qua trung gian như nắm cửa… Vi rút có thể tồn tại trong môi trường đến ba tiếng đồng hồ. Khi tay ta tiếp xúc với các chất tiết này, rồi dụi vào mắt mũi của mình, ta sẽ bị lây bệnh.
Do đó, điều quan trọng đầu tiên để phòng cúm là:
-Tránh tiếp xúc gần với người bệnh.
-Khi mình đã bị bệnh, thì tránh tiếp xúc với người khác để khỏi lây cho họ.
-Nếu có triệu chứng cúm, CDC khuyến cáo là bệnh nhân nên nghỉ ở nhà cho đến khi hết sốt ít nhất 24 tiếng đồng hồ mà không cần dùng thuốc hạ sốt
-Nên rửa tay thường xuyên. Tốt nhất là rửa với xà bông và nước ấm, khoảng 20 đến 30 giây. Hai mươi đến ba mươi giây là khoảng thời gian mà ta hát bài “Happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday, happy birthday, happy birthday to you” khoảng hai lần. Nếu nước và xà bông có sẵn, thì có thể dùng loại dung dịch chà tay có alcohol.
-Không vứt bỏ khăn chùi mũi bừa bãi.
-Khi ho hay ách xì, nên che miệng bằng cánh tay, chứ không phải bằng bàn tay, để giảm bớt các chất tiết dính vào bàn tay rồi qua các vật dụng hoặc bàn tay người khác.
-Tránh sờ, móc tay, ngón tay vào mắt, mũi.
-Lau chùi các bề mặt có thể dính virus truyền bệnh cảm cúm (như nắm cửa, đồ chơi trẻ em…) với chất sát trùng.
Dù nằm trong các hạt li ti trong không khí sau khi người bệnh ho hay ách xì ra, vi rút lại không có trong nước bọt của người bệnh trong 90 phần trăm các trường hợp. Do đó, điều lý thú là bị (hay được) người bệnh hôn, thường không khiến ta bị lây bệnh.
Nhiều người vẫn tưởng lạnh là một nguyên nhân gây ra cảm hay cúm. Thật ra, nhiều nghiên cứu cho thấy khí hậu lạnh không phải là nguyên nhân của cảm hay cúm. Lạnh có thể gây ra viêm mũi do co giãn mạch máu trong mũi (vasomotor rhinitis), có triệu chứng giống như cảm, nhưng đó không phải là cảm, và không lây. Tuy nhiên, dù sao, giữ cơ thể đủ ấm vẫn là điều tốt và cần thiết.
Bên cạnh các phương pháp phòng ngừa rất quan trọng kể trên, áp dụng cho cả cảm và cúm. Ta còn có thể để phòng cúm bằng cách dùng thuốc ngừa.
Thuốc ngừa cúm gồm có vắc xin, và thuốc trị cúm cũng có thể dùng để ngừa cúm.
CDCkhuyên tất cả mọi người từ 6 tháng tuổi trở lên đều nên chích ngừa cúm.
Những người có nguy cơ cao bị bệnh, và nếu bị thì dễ bị nặng, và bị biến chứng, cần chú ý để chủng ngừa hơn:
-Tất cả trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi.
-Tất cả phụ nữ sẽ có thai.
-Người lớn từ 50 tuổi trở lên.
-Những người ở bất cứ tuổi nào có các bệnh kinh niên.
-Những người bị suy giảm miễn dịch (do thuốc, hay do bị nhiễm HIV).
-Những người từ 6 tháng đến 18 tuổi và đang phải uống aspirin kéo dài (sẽ có thể bị hội chứng Reye sau khi bị cúm).
-Những người ở trong nursing home hoặc những chỗ chăm sóc, nuôi dưỡng bệnh nhân khác.
-Những người bị béo phì nặng (BMI – cân nặng tính bằng kg chia bình phương của chiều cao tính bằng mét – từ 40 trở lên).
-Những người tiếp xúc với những người kể trên.
-Những người tiếp xúc và chăm sóc cho trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn từ 50 tuổi trở lên.
-Nhân viên y tế.
Ngoài thuốc chủng ngừa, một số thuốc dùng để trị cúm (như Tamiflu) cũng có thể được dùng để ngừa cúm. Giống như trong việc điều trị, thuốc cần phải được bắt đầu trong vòng 48 tiếng từ khi tiếp xúc với người bệnh, phải có toa bác sĩ mới mua được thuốc này, và phải dùng ít nhất là bảy ngày. Liều ngừa bệnh khác với liều trị bệnh.
Tóm tắt
Cúm thường nặng hơn cảm, thường có sốt cao, rét, đau rêm mình mẩy.
Nếu nghĩ là cúm, hoặc nếu nghi là có các biến chứng nên đi bác sĩ sớm để đuợc chẩn đoán và chữa sớm và thích hợp.
Nâng cao sức đề kháng bằng ăn, uống, nghỉ ngơi đầy đủ và trị triệu chứng là điều cần làm trong việc điều trị cả hai bệnh cảm và cúm.
Thuốc trị và ngừa cúm cần phải được dùng trong vòng 48 tiếng đống hồ đầu tiên mới mang lại hiệu quả tốt nhất.
Rửa tay với nước và xà bông khoảng 20-30 giây – bằng thời gian hát “Happy birthday to you” hai lần là điều đơn giản, không tốn kém, nhưng lại rất cần thiết và hiệu quả trong việc phòng cúm.
Tất cả mọi người từ 6 tháng tuổi trở lên, đều nên chích ngừa cúm. Những người có nguy cơ cao cần chích ngừa cúm càng sớm (hoặc càng ít trễ) càng tốt.
 Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng/ nguoi viet 16/11/2018