Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

Tương Tác Giữa Thực Phẩm Và Dược Phẩm


Nếu thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của cơ thể thì dược phẩm cũng có vai trò rất quan trọng cho cơ thể đó, nhất là khi bịnh hoạn đau ốm cần điều trị bằng thuốc men.
 
Hai nhu cầu đều có dụng ý tốt, nhưng dùng chung với nhau đôi khi sẽ có những hậu quả không hay. Ảnh hưởng này đã được nghiên cứu rộng rãi, vì trong những thập niên vừa qua, việc tiêu thụ dược phẩm gia tăng và tai nạn do trị liệu bằng các hóa chất này cũng thường xẩy ra.
 
Dược phẩm là những hóa chất hoặc thảo mộc được dùng để chữa dứt hoặc làm giảm các triệu chứng của bệnh. Dược phẩm cũng được dùng để ngăn ngừa sự xuất hiện của một số bệnh.
 
Trong cơ thể, dược phẩm được sử dụng qua ba giai đoạn:
 
a-thuốc sẽ được hòa tan trong bộ máy tiêu hóa;
 
b-rồi được máu hấp thụ, chuyển vào các tế bào; và
 
c-sẽ có những đáp ứng của cơ thể với tác dụng của dược phẩm.
 
Dược phẩm được phân phối nhiều nhất vào các cơ quan như tim, gan, thận, não bộ; một số nhỏ vào thịt, da, mỡ.
 
Dược phẩm có thể làm tăng hoặc giảm sự dinh dưỡng. Ngược lại, tình trạng dinh dưỡng của người bệnh có thể làm giảm tác dụng hoặc làm tăng độc tính của dược phẩm.
 
Thực phẩm có thể làm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho sự hấp thụ dược phẩm, làm sự chuyển hóa mau hoặc chậm, ngăn chặn tác dụng của dược phẩm.
 
Ngược lại, dược phẩm có thể làm giảm khẩu vị, làm thực phẩm trở nên khó tiêu, khó hấp thụ hoặc làm thất thoát sinh tố, muối khoáng qua sự bài tiết phân và nước tiểu. Hậu quả là tình trạng suy dinh dưỡng của cơ thể.
 
A- Tương tác của Dược Phẩm vào Dinh Dưỡng
 
1-Ảnh hưởng vào sự ăn uống.
 
Rất nhiều dược phẩm có thể làm giảm khẩu vị, mất sự ngon miệng. Tác dụng này trở nên có ích khi ta muốn giảm cân vì quá mập phì. Nhưng đối với nhiều người thì tác dụng lại không tốt và đưa tới thiếu dinh dưỡng.
 
Sau đây là một số thuốc làm giảm sự ăn ngon: Sulfasalazine trị bệnh thấp khớp; Colchicine chữa thống phong; Diabenese chữa tiểu đường; thuốc hạ huyết áp Furosemide, Hydralazine, Hydrochlorothiazide; thuốc trị suy tim Digitalis; thuốc an thần Temazepam; thuốc trị kinh phong Tegretol. Đặc biệt là các hóa chất trị ung thư khiến người bệnh buồn nôn, giảm vị giác, thấy thức ăn không còn hấp dẫn.
 
Các thuốc làm giảm hoặc thay đổi vị giác thì rất nhiều. Xin kể một vài thứ thường dùng: thuốc ngủ an thần Meprobamate, Dalmane, Triazolam; thuốc trầm cảm Lithium; kinh phong Phenytoin; kháng nấm Griseofulvin.
 
Thuốc làm tăng sự thèm ăn như Cyproheptadine ( Periactin) giúp ăn ngon hơn và tăng sức nặng cho cơ thể. Ngược lại, thuốc Amphetamine lại làm giảm sự thèm ăn, nên được người mập dùng để có eo.
 
Các thuốc vừa kể đều có tác dụng phụ nên cần được dùng dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.
 
2-Ảnh hưởng vào sự hấp thụ Thực Phẩm.
 
Hầu hết sự hấp thụ dược thực phẩm đều diễn ra ở ruột non. Do đó, sự tương tác nếu có, sẽ là giảm khả năng hấp thụ của màng niêm ruột và bao tử, giảm thời gian thực phẩm nằm trong ruột.
 
Lấy một thí dụ là thuốc nhuận tràng dầu khoáng chất (mineral oil). Thuốc này được bán tự do không cần toa bác sĩ và nhiều người chúng ta thường dùng để thông đại tiện. Sau khi uống, thuốc hòa lẫn với thực phẩm đã được tiêu hóa, vào bao tử và ruột, làm lòng ruột trơn nhờn . Một số sinh tố hòa tan trong chất béo như A,D,E,K có thể được hòa hợp vào dầu thuốc, chạy khỏi ruột mà không được hấp thụ. Hậu quả là thiếu sinh tố có thể xẩy ra nếu ta dùng dầu xổ này quá thường xuyên.
 
Giảm hấp thụ thực phẩm cũng có thể do thuốc làm giảm tác dụng của một vài diêu tố như là mật trong sự tiêu hóa mỡ béo. Chất béo không được hấp thụ, thì các sinh tố hòa tan trong mỡ sẽ mất đi. Thuốc hạ cholesterol trong máu và kháng sinh neomycin đều ảnh hưởng tới mật và gây khó khăn cho sự tiêu hóa cũng như hấp thụ chất béo.
 
Cimetidine chữa loét bao tử làm giảm acid trong bộ máy tiêu hóa, đưa đến kém hấp thụ sinh tố B 12 bằng cách không cho sinh tố này tách ra khỏi thực phẩm.
 
Trường hợp thuốc chống đau nhức Aspirin và các dược phẩm có chất chua acid cũng đáng nhớ. Các thuốc này làm hư hao màng niêm bao tử và ruột khiến trở ngại sự hấp thụ thực phẩm ở các bộ phận này, nhất là khoáng calcium và sắt.
 
Thuốc Neomycin thay đổi cấu trúc của niêm mạc làm cho sự hấp thụ chất đạm, béo và các muối sodium, potassium bị trở ngại. Nhưng may mắn là khi ngưng thuốc thì mọi sự trở lại bình thường.
 
3-Ảnh hưởng tới sự chuyển hóa và phế thải thực phẩm.
 
Sau khi hấp thu, chất dinh dưỡng sẽ được chuyển hóa thành năng lượng và các phần tử căn bản để cấu tạo tế bào.
 
Sự chuyển hóa chỉ xẩy ra dưới tác dụng của các diêu tố (enzyme). Với số lượng rất nhỏ, diêu tố có thể thúc đẩy một phản ứng sinh học mà không bị tiêu hao. Diêu tố được sản xuất từ trong hoặc ngoài tế bào với sự hiện diện của vài phần tử dinh dưỡng như sinh tố.
 
Một số dược phẩm ngăn chặn sự thành hình của diêu tố bằng cách lấy đi vài hóa chất cần thiết cho việc sản xuất diêu tố. Các thuốc Methrotrexate chữa ung thư máu, viêm thấp khớp và thuốc Pyrimethamine chữa sốt rét ngã nước là hai loại thuốc lấy đi folate acid trong DNA của diêu tố khiến nó vừa không phân sinh vừa bị tiêu hủy.
 
Thực phẩm và dược phẩm có thể liên kết, tạo ra một hợp chất mà cơ thể không dùng được. Thí dụ khi uống INH để chữa hoặc ngừa bệnh lao, ta thường phải uống thêm sinh tố B 6 vì INH kết hợp với Pyridoxine B 6 trong thực phẩm thành một hợp chất mà cơ thể không dùng được. Các thuốc này được gọi là loại chống sinh tố anti vitamins.
 
Một số dược phẩm làm tăng sự phế thải chất dinh dưỡng. Thí dụ khi ta uống các thuốc lợi tiểu tiện thì thuốc cũng làm thất thoát calcium, potassium, zinc theo nước tiểu và cơ thể sẽ thiếu những khoáng này.
 
B-Ảnh hưởng của Thực phẩm vào Dược phẩm
 
1-Ảnh hưởng vào sự hấp thụ dược phẩm .
 
Hấp thụ dược phẩm là mang thuốc vào mạch máu từ bao tử hoặc ruột vì đa số thuốc được uống dưới dạng viên hoặc dung dịch. Sinh- hiện- hữu (bioavilability) là số lượng thuốc sẵn sàng để có thể được hấp thụ vào máu sau khi uống hoặc chích.
 
Sự hấp thụ tùy thuộc vào kích thước của các hạt thuốc, lý hóa tính của thuốc, dạng thuốc  và nồng độ thuốc. Ngoài ra sự hấp thụ cũng chịu ảnh hưởng của mức độ acid/kiềm ( pH) của môi trường, sự co bóp của ruột, sự hiện diện của thức ăn, khả năng hấp thụ của tế bào ruột và số lượng máu lưu thông ở ruột.
 
  Một số chất dinh dưỡng trong ruột có thể làm giảm hoặc trì hoãn sự hấp thụ vài loại thuốc. Do đó thuốc không đạt được mức độ tối thiểu trong máu để có hiệu quả. Đôi khi sự hấp thụ chậm cũng kéo dài tác dụng của thuốc.
 
Như trường hợp của hầu hết thuốc kháng sinh, khi uống chung với thức ăn thì tốc độ cũng như số lượng thuốc được hấp thụ đều giảm. Vì thế, chỉ nên uống kháng sinh khi bao tử không có thực phẩm, thí dụ hai giờ trước hoặc sau khi ăn.
 
Calcium trong thực phẩm ngăn sự hấp thụ thuốc Tetracycline cho nên khi uống thuốc này thì không uống sữa có nhiều calcium. Sữa cũng làm độ acid trong bao tử lên cao khiến cho các viên thuốc bọc (enteric coated tablets) tan ra và làm bao tử xót, do đó sự hấp thụ giảm đi rất nhiều.
 
Thuốc trị kinh phong Phenytoin sẽ bị giảm hấp thụ nếu thực phẩm có nhiều chất đạm vì thuốc này sẽ bám chặt vào chất đạm.
 
Thuốc nước thường ít bị ảnh hưởng của thực phẩm vì nó không cần được làm hòa tan và có thể chuyển dễ dàng sang máu.
 
Còn thực phẩm làm tăng sự hấp thụ của thuốc thì phải kể tới trường hợp thuốc Griseofulvin. Thuốc này dùng để chữa các bệnh về nấm ( fungal diseases). Khi dùng chung với thức ăn nhất là có nhiều mỡ béo, thì sự hấp thụ của nó lại tăng lên rất cao. Lý do là chất béo làm gan tăng sản xuất mật. Thuốc hòa tan trong dầu mỡ cũng theo mật để chuyển vào máu nhiều hơn.
 
Khi ăn no, thuốc nằm lâu trong bao tử, hòa tan nhiều và được hấp thụ tốt hơn.
 
2-Làm giảm hiệu lực của thuốc.
 
 Nếu là một thuốc có công hiệu rất mạnh, thì một vài thực phẩm có thể làm giảm công dụng này và đưa tới hậu quả không tốt cho bệnh nhân.
 
Một thí dụ là thuốc Warfarin (Coumadin) để chống lại sự đóng cục của máu trong một vài bệnh. Tác dụng của Coumadin tùy thuộc vào sự hiện diện của sinh tố K. Dược lực giảm nếu người bệnh ăn thực phẩm có nhiều sinh tố K như gan, rau xanh. Hậu quả là sự đóng cục của máu trở nên trầm trọng hơn. Ngược lại, khi bệnh đang ổn định với một lượng Coumadin nào đó mà bây giờ bệnh nhân giảm tiêu thụ thực phẩm có sinh tố K thì tác dụng loãng máu của Coumadin sẽ gia tăng. Xin nhắc lại là sinh tố K giúp máu đông đặc, không bị loãng và băng huyết. 
3- Tăng và giảm độc tính của thuốc
 
Một vài chất dinh dưỡng có thể làm tăng độc tính của thuốc.
 
Thí dụ thuốc chữa trầm cảm và cao huyết áp MAO ( monoamine oxidase). Khi uống thuốc này thì không được dùng thực phẩm có chất Tyramine kẻo mà huyết áp sẽ vọt lên rất cao.
 
Tyramine có trong thực phẩm như pho mát, sữa chua, chuối, dầu đậu nành, la de, rượu vang đặc biệt là tim động vật.
 
Trái lại, vài chất dinh dưỡng lại làm giảm tác dụng xấu của thuốc. Thí dụ, nếu uống thuốc trị nhiễm trùng Nitrofurantoin lúc bụng đói thì thấy ruột cồn cào khó chịu, mà uống chung với một ít sữa hoặc ăn một chút thực phẩm thì tránh được khó chịu này.
 
4-Tác dụng trên sự chuyển hóa dược phẩm.
 
Chuyển hóa là sự thay đổi hóa chất của thuốc với nhiều mục tiêu khác nhau: a)để phế thải sau khi thuốc được dùng; b)với chuyển hóa, thuốc sẽ tăng hoặc mới có tác dụng và c) chuyển hóa làm tăng dược tính của thuốc.
 
Sự chuyển hóa tùy thuộc phần lớn vào số lượng các chất dinh dưỡng chính là chất đạm, chất béo và carbohydrates. Đa số phản ứng chuyển hóa thuốc xẩy ra ở gan, nhưng cũng có thể ở một số cơ quan khác.
 
Thuốc thường bám vào các chất dinh dưỡng. Phần thuốc lưu hành tự do trong máu không bám vào thực phẩm mới có công dụng trị bệnh. Chẳng hạn khi chất đạm albumin giảm vì suy dinh dưỡng hay suy gan, thuốc không có chỗ bám, sẽ lưu hành nhiều trong máu và dược tính của thuốc gia tăng. Thực phẩm nhiều chất béo sẽ làm chất béo acit fatty acids trong máu gia tăng. Fatty acids chiếm hết albumin, thuốc tự do có nhiều và tác dụng thuốc mạnh hơn.
 
Nói chung, bất cứ chất gì có thể thay đổi tỷ lệ bám/ không bám với dược phẩm đều có thể thay đổi dược lực.
 
Ngoài ra, sự chuyển hóa cũng tùy thuộc vào tốc độ hấp thụ thuốc ở ruột chuyển sang gan; tùy theo tình trạng tốt xấu các chức năng gan và tùy theo các bệnh của cơ thể cũng như tình trạng dinh dưỡng.
 
5-Tác dụng trên sự phế thải của dược phẩm.
 
Thuốc được thải theo nhiều đường dây: qua thận, gan, hệ tiêu hóa và qua sữa mẹ. Các chất dinh dưỡng có ảnh hưởng trên sự thải bỏ này bằng cách thay đổi độ acid của nước tiểu.
 
Thực phẩm làm nước tiểu kiềm sẽ tăng thải thuốc có tính acid như phenobarbital; thực phẩm làm nước tiểu acid sẽ tăng loại bỏ thuốc alkaline như amphetamine.Thực phẩm có nhiều đạm sẽ tăng thải barbiturates, theophylline, phenytoin từ thận. Thực phẩm có nhiều chất xơ tăng thải thuốc hòa tan trong chất béo. Thiếu muối sodium sẽ tăng tái hấp thụ thuốc lithium làm tăng độc tính thuốc này.
 
Rượu được xếp vào loại dược phẩm nhưng lại được nhiều người uống như một thực phẩm. Khi dùng kinh niên, rượu có thể tăng chuyển hóa thuốc, đưa đến giảm tác dụng của thuốc. Ngược lại, khi uống nhiều mà chỉ uống một vài lần thì rượu lại ngăn sự chuyển hóa thuốc, thuốc tăng công hiệu.
 
C-Giảm sự hấp thụ của cả thuốc và chất dinh dưỡng.
 
Một đôi khi, tương tác giữa thuốc và chất dinh dưỡng đưa tới suy giảm hấp thụ của cả hai thứ phẩm vào máu.
 
Thí dụ kháng sinh Tetracycline là loại thuốc rất thường dùng, có thể liên kết với các khoáng calcium, magnesium, sắt thành ra hợp chất không hòa tan và không được hấp thụ. Thuốc và chất dinh dưỡng bị phế thải hết. Thành ra, nên uống tetracycline khi bụng đói. Mà khi bụng đói thì thuốc lại cồn cào ruột. Muốn tránh, có thể uống một ly nước đầy.
 
Không nên uống sữa hoặc phó sản của sữa với tetracycline, vì calcium trong các thực phẩm này và thuốc sẽ kết hợp thành hợp chất không hòa tan và thuốc thành vô dụng.
 
D-Một số thuốc và thực phẩm gây tương tác.
 
Sau đây là một số thuốc và dược phẩm thường gây tương tác.
 
1-Thuốc chống đau nhức. Nói chung các thuốc này đều kích thích niêm mạc bao tử, vậy không nên dùng chung với rượu hoặc nước trái cây mà có thể ăn một chút thực phẩm. Thuốc chống đau thường dùng là Aspirin, Ibuprofen, Corticosteroids, Indomethacin
 
2-Thuốc chữa cao huyết áp. Nên hạn chế muối để thuốc công hiệu hơn.
 
3-Thuốc chống máu cục như Warfarin, Coumadin. Không nên dùng nhiều thực phẩm có sinh tố K vì sinh tố này tạo ra chất làm máu đông lại. Sinh tố K có trong rau spinach, khoai tây, lòng đỏ trứng, dầu thảo mộc, cauliflower, bắp cải chồi ( brussel sprout).
 
4- Thuốc thông tiểu tiện như Lasix, Furosemide, Esidrex, Hydrodiuril làm mất potassium nên thường phải dùng thêm khoáng này. K có nhiều trong chuối, cam trái.
 
5- Thuốc chống dị ứng như Benadryl, Chlotrimeton, Dimetane. Không dùng chung với rượu, vì cả hai loại đều làm tăng ngất ngây, buồn ngủ, chậm phản ứng.
 
6-Thuốc suyễn làm mở cuống phổi như Theodur, Aminophylline đều không nên dùng chung với thực phẩm nước uống có nhiều caffeine, để tránh kích thích thần kinh.
 
7- Thuốc kháng sinh nhóm Penicillin như Amoxicillin, Ampicillin, Penicillin G và V khi ăn no thường kém hiệu nghiệm vì giảm hấp thụ. Sulfa khi dùng chung với rượu gây ra buồn nôn; nên tránh uống kháng sinh tetracycline với sữa, sữa chua, pho mát hoặc khi đang dùng thêm khoáng sắt , calcium
 
8- Thuốc ngủ hoặc thuốc trị bệnh tâm thần đều có tương tác với rượu, gây ngây ngất, buồn ngủ, nên tránh dùng chung. Đặc biệt thuốc trị trầm cảm Monoamine oxidase không được dùng với thực phẩm có tyramine, vì huyết áp sẽ tăng rất cao. Thực phẩm có nhiều tyramine là pho mát, súc cù là, gan gà và heo, rượu vang.
 
9- Thuốc nhuận trường, mà đa số đều mua tự do không cần toa bác sĩ, nếu dùng thường xuyên có thể làm mất sinh tố và khoáng chất.
 
Kết luận.
 
Cả hai thứ thực phẩm và dược phẩm đều cần thiết cho cơ thể nhưng đôi khi sự hòa lẫn hai thứ đưa tới vài khó khăn.
 
Nguy cơ gây tương tác giữa thực phẩm và dược phẩm tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe tổng quát của cơ thể, bệnh hoạn kinh niên, chế độ kiêng khem, ăn uống, lạm dụng rượu, thuốc gây ghiền, sử dụng nhiều loại dược phẩm.
 
Để tránh hậu quả tương tác, người bệnh cần thông hiểu cái hay cái dở của thuốc; người thầy thuốc, nhân viên dược phòng cũng dành thì giờ căn dặn, chỉ dẫn bệnh nhân cách dùng thuốc.
 

Được như vây, thì ăn uống an toàn, thuốc men hiệu quả, cuộc đời sẽ an lành hơn.

Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức