Ăn gì thì ăn nhưng rồi cũng phải quay trở về với ba hột cơm mới được.
Vắng cơm trong ba bốn ngày thì cảm thấy thiếu, thấy nhớ nó lắm bạn ơi.
Hầu như mỗi ngày ai ai cũng đều ăn cơm hết, nhưng ít khi nào chúng ta than thở ngán cơm.
Bs Nguyễn T Chánh - Nên chọn gạo Thái hay gạo Mỹ
Một chứng bệnh ngọt ngào…
Bệnh tiểu đường loại II rất phổ biến trong giới bà con Việt Nam mình sống tại hải ngoại
cũng như ở bên nhà, đặc biệt là những người từ 45 tuổi trở lên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2003 có lối 194 triệu người bị bệnh tiểu đường. Số nầy
có thể sẽ tăng gấp hai vào năm 2025.
Tại Canada, ước lượng có vào khoảng 1.8 triệu người bị bệnh tiểu đường loại II, tương
đương với 8% dân số trưởng thành.
Riêng tại Hoa Kỳ, có thể có đến 54 triệu người tuổi từ 45 đến 74 đang trong tình trạng tiền
tiểu đường prediabetes và lối 8 triệu người bị bệnh diabetes thật sự.
Việt Nam hiện có trên 5 triệu bệnh nhân tiểu đường...
Trên 5% dân số trung Quốc tuổi từ 35 đến 74 bị bệnh tiểu đường.
“Trong báo JAMA số 20 ra ngày 27-5-2009, J.C.N. Chan và csv dựa vào các báo cáo bằng
tiếng Anh từ tháng Giêng năm 1980 đến tháng Ba năm 2009 đã viết một bài tổng
quan về tiểu đường loại 2 ở Á châu…
Theo các tác giả những yếu tố làm cho tiểu đường tăng nhanh ở Á châu là sự toàn cầu
hóa với sự chuyển nhượng kỹ thuật và tăng trưởng kinh tế nhanh, sự thay đổi cách ăn và
cách sống. Người Á châu ít vận động hơn trước, bị căng thẳng và thiếu ngủ hơn, hút thuốc
lá, ăn mỡ và uống nước ngọt nhiều hơn, ăn gạo xay trắng, gạo của Việt nam có chỉ số
đường từ 86-109. Nhiều genes tiểu đường mới được tìm thấy ở người da trắng cũng được
xác nhận ở người Á châu. (ngưng trích Bs Nguyễn Văn Đích, Tiểu đường loại 2
ỏ Á châu, Ydượcngàynay)
Tỷ lệ gia tăng bệnh tiểu đường ở Việt Nam cao nhất thế giới
“Đó là phát biểu của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên trong buổi hội thảo “Bệnh đái
tháo đường trong mối quan tâm về y tế toàn cầu” do Bộ Y tế và Đại sứ quán Đan Mạch tổ
chức ngày 29/5, tại Hà Nội.
Theo thống kê trong 10 năm qua, số bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường ở nước ta tăng
211%, Việt Nam nằm trong số quốc gia có tốc độ tăng bệnh nhân tiểu đường cao nhất
thế giới. Nghiên cứu tại các địa phương cho thấy, toàn quốc hiện có khoảng 5 triệu bệnh
nhân tiểu đường, điều đáng nói là cứ 10 ca tiểu đường thì có 6 ca được chẩn đoán là có
biến chứng cực kỳ nguy hiểm, có thể dẫn tới mù lòa, tàn phế, thậm chí là tử vong.(Ngưng
trích PV-Health+ 02/06/2014)
Tiền tiểu đường (Prediabetes) đi trước, tiểu đường (Diabetes) lọt tọt theo sau.
Trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán thật sự, chúng ta phải trải qua một giai đoạn
xáo trộn biến dưỡng trong nhiều năm với những triệu chứng như béo phì, rối loạn dung
nạp glucose Impaired glucose tolerance, có nghĩa là glucose máu có khuynh hướng tăng
hơn mức bình thường chút ít.Bác sĩ gọi đây là tình trạng tiền tiểu đường (prediabetes).
Danh từ Prediabetes là một chẩn đoán lâm sàng tương đối còn mới mẻ và được sử dụng
lần đầu tiên năm 2002 bởi hai cơ quan The US Department of Health and Human
Services và The American Diabetes Association, với mục đích chính là để nhấn mạnh vào
việc phòng ngừa bệnh tiểu đường, đã không ngừng gia tăng trong dân chúng Mỹ.
“Diabetes mellitus is a metabolic disorder characterized by the presence of hyperglycemia due to defective
insulin secretion, defective insulin action or both. The chronic hyperglycemia of diabetes is associated with
relatively specific long-term microvascular complications affecting the eyes, kidneys and nerves, as well as an
increased risk for cardiovascular disease (CVD). The diagnostic criteria for diabetes are based on thresholds of
glycemia that are associated with microvascular disease, especially retinopathy.
“Prediabetes” is a practical and convenient term referring to impaired fasting glucose (IFG), impaired glucose
tolerance (IGT) (1) or a glycated hemoglobin (A1C) of 6.0% to 6.4%, each of which places individuals
at high risk of developing diabetes and its complications.
Tùy theo test thử nghiệm mà Prediabetes còn được gọi bằng những tên khác nhau như
tình trạng xáo trộn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance IGT) hoặc tình trạng
xáo trộn glucose lúc bụng đói (impaired fasting glucose IFG).
Prediabetes là giai đoạn dự báo của bệnh diabetes type II trong tương lai.
Làm sao biết được mình đã bị prediabetes?
Tình trạng prediabetes không có một biểu hiện lâm sàng rõ rệt nào hết nếu không thử
máu để đo mức đường glucose của mình.
Tùy theo tình trạng của bệnh nhân mà bác sĩ cho thử loại test nào.
Có hai tests có thể được thực hiện:
+Test 1: Test glucose lúc bụng đói (Fasting Plasma Glucose Test)
Test thực hiện lúc sáng sớm sau khi bạn phải nhịn ăn qua đêm ít nhất 8 tiếng đồng hồ trước
đó.
+Test 2: Test glucose sau khi ăn (Two hour oral glucose tolerance test hay glycémie
provoquée)
Người ta cho bạn uống 75g glucose, bạn ngồi lại trong phòng chờ, và máu được rút ra để
đo đường huyết sau đó 2 tiếng đồng hồ.
** Nếu bị prediabetes rồi, thì mỗi năm bạn cần phải được test lại để theo dõi sự tiến triển
của nó. Trong giai đoạn nầy, bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân nên ăn uống cho kỹ lưỡng và
nhớ tập thể dục đều đặn mà thôi chớ chưa cần phải uống thuốc.
Tiểu đường loại 2 (Diabetes type 2)
Tiểu đường loại 2, là một bệnh mãn tính với biểu hiện chính là đường huyết rất cao vì tụy
tạng tiết không đủ insulin cần thiết, hoặc đủ insulin nhưng nó lại bị đề kháng (insulin
resistance) nên không còn hữu hiệu trong việc giúp hấp thụ đường glucose từ máu vào tế
bào.
Mệt mỏi, mất cân, ăn nhiều (polyphagia), uống nước nhiều (polydipsia) và đi tiểu nhiều
(polyuria) là những dấu hiệu chính của bệnh tiểu đường.
Nguy hiểm nhất là bệnh có thể gây những biến chứng về mắt (rétinopathie diabétique)
đưa đến mù lòa, làm suy thận (insuffisance rénale), hoặc dẫn đến các bệnh lý về
tim mạch (cardiopathies), về thần kinh (neuropathie diabétique) hoặc làm loét chân
(ulcération des pieds) đưa đến việc cưa chân... Bệnh nhân chết vì các biến chứng của
bệnh tiểu đường gây ra mà thường nhất là bị hư thận.
Theo Bs Nguyễn văn Đức bệnh tiểu đường được định theo tiêu chuẩn của American
Diabetes Association (ADA, Hiệp Hội Tiểu Đường Hoa Kỳ), bằng 1 trong 4 cách sau:
- Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125 mg/dl
- Người bệnh có triệu chứng và đường đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200 mg/dl
- Oral glucose tolerance test (OGTT) bất thường: sau khi cho ăn đường glucose 1.75 g/kg
(tối đa 75 g), 2 tiếng sau đo đường máu, thấy vẫn cao hơn 200 mg/dl
- Trị số HbA1C (biểu thị lượng đường trung bình trong máu chúng ta trong vòng 3 tháng
qua) bằng hay cao hơn 6.5.
Nếu nghi bệnh tiểu đường, chúng ta dùng một trong 4 cách định bệnh trên, và nếu thử lại
lần nữa, vẫn bất thường như vậy, người bệnh được xem có bệnh tiểu đường.”
(Ngưng trích Bs Nguyễn V Đức, Rosemead Cali)
Có rất nhiều loại thuốc uống để kềm hãm đường huyết, và nếu trường hợp quá nặng thì
cần phải chích insuline mỗi ngày. Đa số thuốc đều có phản ứng phụ (side effects) bất lợi.
Tùy theo tình trạng sức khỏe của mỗi người cũng như sự hiện diện của biến chứng mà bác
sĩ kê toa một loại thuốc nào đó, hoặc đổi thuốc khác, hoặc điều chỉnh liều lượng của món
thuốc cho thích hợp hơn, v.v...
Có người cũng sử dụng thuốc thiên nhiên để giúp kéo đường huyết xuống phần nào, hư
thật ra sao khó có ai biết được một cách chắc chắn hết.
Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?
Từ lâu, chất bột đường glucide hay carbohydrate được xếp theo cấu trúc hóa học của
chúng, nghĩa là theo chiều dài của chuỗi tinh bột amidon và theo tốc độ tiêu hóa và hấp
thụ tại ruột non.
Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận rằng nhiều loại đường (mono, di, và polysaccharide) và
thức ăn có glucides chẳng hạn như rau quả, ngũ cốc, sữa có thể làm tăng đường huyết
một cách riêng biệt khác nhau.
Từ nhận xét trên, Gs David Jenkin, Canada là người đầu tiên đã nêu ra ý niệm chỉ số
đường huyết vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (các
loại đường tận cùng bằng OSE như fructose, saccharose,lactose,maltose…) và đường
phức tạp (như cơm, gạo, ngũ cốc, rau, đậu, pasta…) đã lỗi thời.
Biết rằng đường đơn giản được chuyển thành glucose và được hấp thụ rất nhanh.Ngược
lại đường phức tạp phải cần sự tác động của vài loại enzymes để chuyển ra glucose vì vậy
có sự hấp thụ chậm hơn đường đơn giản…
Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra
thường xuyên insulin và yếu tố insulin like growth factor one IGF-1.
Theo thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường
là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một carbohydrate ra thành glucose để
được hấp thụ vào máu.
Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. Vì vậy, các nhà dinh
dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo
phì, bệnh tim mạch và tiểu đường loại II.
Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong
các bữa ăn hằng ngày. Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh
mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm có chứa nhiều dưỡng
chất và chất xơ.
Đối với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ tăng chậm hơn là nếu dùng các
loại đường đơn giản quá tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.
Tuy vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, white
bread, bắp, khoai Tây lại có chỉ số đường huyết GI cao hơn một số đường đơn giản.
GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như: tùy theo kích thước các
phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI
càng cao; tùy theo cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati chứa nhiều đường amylose nên
có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày); tùy theo cách biến
chế nấu nướng (nhiệt độ làm thay đổi phân tử amidon), như khoai Tây nấu chín trong nồi
có GI thấp hơn khoai Tây đút lò; khoai Tây luộc nghiền nhuyễn (mashed potatoes, flocon
de pomme de terre) có GI cao hơn GI khoai Tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn
GI carotte nấu chín, tùy số lượng chất xơ hòa tan (soluble fiber), tùy theo tỉ lệ proteine,
chất xơ và chất béo trong thực phẩm, v.v…
Bởi những sự khác biệt kể trên cũng như sự thiếu tiêu chuẩn hóa trong việc đo lường một
thực phẩm có glucide mà vấn đề chỉ số đường huyết GI vẫn còn là đề tài tranh cãi giữa các
nhà khoa học với nhau. Họ đưa ra giả thuyết, một GI cao làm tăng đường huyết lên và làm
trầm trọng hơn hiện tượng đề kháng insuline (résistance à linsuline). Sự xáo trộn nầy sẽ
dẫn tới hiện tượng bất dung nạp glucose (glucose intolérance)
Có người cho rằng một chế độ dinh dưỡng gồm có GI cao và nghèo chất xơ sẽ làmtăng sự đề kháng glucose và đề kháng insuline và từ đó dẫn đến bệnh diabetes type 2.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng trong lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận
động viên quan tâm đến.
Trước ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và GI trung bình, như pasta,
spaghetti, chuối, yogurt để dự trữ năng lượng…
Ngày tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có
nhiều đường và vitamins.
Ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để bù đấp lại nhanh
chóng năng lượng tiêu hao.
Đây là một nguyên tắc thường được các người tham dự các cuộc chạy marathon áp dụng.
Tóm lại, một thức ăn có:
- GI thấp: nếu dưới 55
- GI trung bình: từ 56-tới 69
- GI cao: từ 70 trỡ lên
Cơm, gạo và tiểu đường.
Tải lượng đường huyết (charge glycémique, glycemic load hay GL) là gì?
Ý niệm rất mới mẻ trong dinh dưỡng và được các nhà khoa học của Đại học Harvard
đưa ra năm 1997.
GL bổ túc cho chỉ số đường huyết GI.
Tải lượng đường huyết GL có tác dụng ước định khả năng làm tăng đường huyết của
một phần chuẩn (par portion, per serving) của một thức ăn nào đó.
Người ta tính GL bằng cách lấy GI nhân cho số lượng glucides (g) chứa trong phần chuẩn
của sản phẩm, sau đó chia cho 100:
GL= GI x quantity glucides (g) per serving/100
Thí dụ: 1 serving cereal corn flake 30g có GI 82 và có chứa 25g glucide. GL của nó sẽ là
25 x 82/100 = 20,5
Tóm lại, GI là thước đo chất lượng của glucides và GL là thước đo số lượng của glucide
hiện diện trong một thức ăn.
Tải lượng GL của một phần chuẩn (per serving) thức ăn:
- GL thấp nếu dưới 10
- GL trung bình từ 11 đến 19
- GL cao nếu từ 20 trở lên
Tải lượng GL trong một ngày:
- thấp nếu dưới 80
- cao nếu từ 120 trở lên
Tiêu thụ thức ăn có GI cao mà đồng thời chứa ít chất xơ thì rất dễ làm xáo trộn đường
huyết. Lâu ngày có thể làm tăng nguy cơ làm xuất hiện bệnh tiểu đường loại II và bệnh tim
mạch.
Ý niệm tải lượng đường huyết GL được nhiều nhà dinh dưỡng ưa chuộng hơn ý niệm chỉ
số đường huyết GI, vì lý do GL phản ảnh đồng thời số lượng và chất lượng của glucide
trong một thức ăn.
Revised International Table of Glycemic Index (GI) and Glycemic Load (GL) Values—2008
By David Mendosa
Glycemic Index & Glycemic Load Rating Chart (By Mendosa)
Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm.
+Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100
Các loại thức ăn có GI thấp hơn 55:
Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30),
yogurt (35), cam (40), táo pomme (39), biscuit khô (55), bột lúa yến mạch oat (50),
bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (55), carotte tươi (35), fructose hay đường trái
cây (20), gạo lứt Brown rice(50) - đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain - pain
au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím, ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi (22),
cam (43), trái lê poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche tươi (28), nước trái
pomme (48), nho tươi (43).
+Thức ăn có GI trung bình 56 - 69:
Càrem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread
(69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).
Thức ăn có GI cao trên 70:
Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài (trên 72) chứa ít amylose, gạo
tấm broken rice (86), nếp (98), các loại cereal - cornflakes (80), mật ong ( 90), Pepsi
Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai Tây chiên fries hoặc khoai đút
lò (95), khoai nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô
cracker (78), bánh mì baguette (95), Gạo thơm Jasmine long grain white rice(109) của
Thái Lan và Việt Nam.
Cơm và bệnh tiểu đưòng loại 2
Cơm là chất bột đường và sau khi ăn được chuyển ra thành glucose để vào máu. Tùy theo
loại gạo mà đường huyết glycemia tăng nhanh hay chậm. Mỗi một loại gạo có một chỉ
số đường huyết GI khác nhau.
Gạo tinh chế và các loại gạo nào có hàm lượng amylose thấp thì có GI cao.
GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. GI từ 72 trở lên được xem là cao.
Gạo trắng hạt dài (72), gạo tấm broken rice (86), Instant rice (90), nếp (98), Gạo thơm
jasmine hạt dài (109).
- Vậy nếu chúng ta đang có vấn đề bị chao đảo đường huyết thì nên chọn những loại thực
phẩm nào có chỉ số đường huyết GI thấp mà dùng để đường huyết tăng chậm.
Ví dụ: Gạo Basmati (55), gạo lứt Brown rice (50)
*Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dài,
gạo chín nhanh, cơm tấm , xôi nếp, khoai tây đút lò, bánh mì baguette, carotte nấu chín,
và đừng quên bia...
*Nếu đang trong giai đoạn tiền tiểu đường (prediabetes) hay đang bị tiểu đường loại II thì
nên bớt ăn cơm là tốt nhất
Một
vài bệnh nhân tiểu đường là chổ quen biết có nói với tác giả là bác sĩ
khuyên họ chỉ
ăn mỗi bữa nửa chén cơm mà thôi và ăn những loại gạo có
chị số đường huyết thấp.
Thay
thế gạo trắng hạt dài có GI cao, bằng những loại gạo có GI thấp như gạo
Ấn độ
Moolgiri (GI 54), Basmati (GI 55), hoặc gạo Doongara clever rice
(GI 54) của SunRice
Australia chẳng hạn..
Đã có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long grain), là một trong nhiều nguyên
nhân làm tăng đường huyết rất nhanh.
Katherine Harmon. White rice raises risk of type 2 diabetes
Tháng
6, 2010 vừa qua một khảo cứu của Harvard School of Public Health có cho
biết
việc thay thế gạo trắng hạt dài tinh chế bằng gạo lứt brown rice
giúp làm giảm thiểu phần
nào nguy cơ xuất hiện bệnh tiểu đường type 2.
ScienceDaily
(June 14, 2010) — In a new study, researchers from the Harvard School
of Public Health (HSPH) have found that eating five or more servings of
white rice per week was associated with an increased risk of type 2
diabetes. In contrast, eating two or more servings of brown rice per
week was associated with a lower risk of the disease.
Tìm hiểu về gạo trắng hạt dài và gạo lứt
Gạo
trắng hạt dài (Long grain white rice) có được từ gạo nâu hay gạo lứt
brown rice,
riz brun đã được chà xát để lấy các lớp cám bao bọc hạt gạo
ra ngoài. Chính các lớp cám
nầy là nơi tích tụ nhiều chất bổ dưỡng như
vitamin B complex, inositol... Sự chà xát làm
cho hạt gạo trắng ra rất
hấp dẫn người tiêu thụ. Gạo trắng ít bổ dưỡng, nhưng giữ được
lâu dài vì
nhờ không có cám nên lâu bị hôi hơn gạo lứt. Bên cạnh cái lợi cũng có
cái hại
là ăn gạo quá trắng trong thời gian lâu dài dễ bị bệnh phù thủng
beriberi vì gạo thiếu các
sinh tố B1 thiamin, riboflavin...Nhưng trong
thực tế hằng ngày chúng ta nhờ ăn nhiều loại
thực phẩm khác có vitamins
kèm theo cơm nên vấn đề phù thủng không thấy xảy ra.
Tại
hải ngoại, loại gạo chúng ta thường ăn mỗi ngày là gạo trắng hạt dài
Hương Lài
Jasmine của Thái Lan. Gạo Thái hạt dài, dẻo, thơm và để nguội
vẫn ngon. Tuy nói vậy,
nhưng đôi khi mua một bao gạo mới (new harvest)
18kg, đem về ăn chừng 1/3 bao thì gạo
hết thơm, chắc là gạo đã bị trộn
quá.
Lệ
thường chúng ta thích ăn gạo trắng hơn gạo có màu sắc ngà ngà như gạo
lứt chẳng
qua cũng do thói quen ăn uống và tập quán xã hội mà thôi. Bạn
thử tưởng tượng phản
ứng của thực khách ra sao nếu họ được dọn món cơm
gạo lứt ngay bữa tiệc cưới.
Tại
Bắc Mỹ, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ thì gạo trắng là gạo có 4% hạt nát. Khi
gạo lứt được cho chạy qua máy xay, gạo trở nên nóng và bị vỡ ra. 4% hạt
nát hay tấm (brisure, broken rice) là một tiêu chuẩn Hoa Kỳ (American
standard). Gạo tấm thật sự phải là những phần mầm ở đầu hạt gạo. Những
mãnh vỡ là những mãnh nâu, hoặc xậm màu và những hạt trắng hơn bình
thường mà chúng ta có thể thấy trong các bao gạo.
Gạo
nâu hay gạo lứt (riz brun, brown rice): Đây là loại gạo có được sau khi
vỏ lúa bị chà lấy đi nhưng hạt gạo vẫn còn giữ mầm và vỏ cám. Nhờ còn
đủ các vỏ cám và mầm nên gạo nâu được xem là loại gạo bổ nhất vì chứa
nhiều chất xơ và nhiều vitamins ( B1, B3, B5, B6), cùng những chất như
magnesium, manganese, zinc, Fe, Selenium, Phosphorus...
Các
nhà dinh dưỡng đều khuyên chúng ta nên ăn gạo lứt. Lãnh vực thực phẩm
thiên nhiên và Đông y cũng hết lời ca tụng tính năng trị bệnh của gạo
lứt.
Gạo lứt (brown rice)
Brown
rice is simply white rice that has not had the brown-colored bran
covering removed. So brown rice is considered a whole grain. The
difference between brown rice and white rice is not just color! A whole
grain of rice has several layers. Only the outermost layer, the hull, is
removed to produce what we call brown rice. This process is the least
damaging to the nutritional value of the rice and avoids the unnecessary
loss of nutrients that occurs with further processing. If brown rice is
further milled to remove the bran and most of the germ layer, the
result is a whiter rice, but also a rice that has lost many more
nutrients. Since brown rice still has the bran intact, it has more fiber
than white rice. Most people prefer white rice since it is fluffier and
cooks faster than brown. It has three times the fiber of white rice.
**Chú
ý: Cơm trắng hạt dài, cơm tấm, nếp (xôi chè, bánh tét, bánh chưng,
v.v...), bánh mì
baguette, là những món mà đa số người VN mình đều ăn
thường xuyên.
Đây cũng là những món có chỉ số đường huyết cao.
Nên tránh hoặc ăn thật ít nếu chúng ta đang có vấn đề tiểu đường.
Nên thay thế cơm trắng bằng những thức ăn có chỉ số GI thấp như bún, miến, rau cải luộc
hoặc cơm gạo Basmati...
Kết luận
Người
bị tiểu đường cần phải thay đổi nếp sống, kiêng cử đủ thứ, tránh các
loại thức ăn
ngọt, nước ngọt có gaz, bớt cơm, xôi chè, bánh trái chế
biến từ bột tinh chế. Cần tránh thức
ăn chứa nhiều mỡ dầu, ngoài ra cũng
cần phải kiên trì vận động tập thể dục thường xuyên
mỗi ngày.
Một
chế độ dinh dưỡng thích nghi có nghĩa là ăn nhiều rau cải trái cây,
đậu, hạt dẻ, thực
phẩm làm từ bột thô không tinh chế (unrefined complex
carbohydrate), giảm việc ăn thịt đỏ
(heo, bò) và thay thế bằng thịt
trắng như thịt gà hay cá. Ngoài ra, cần nên tránh ăn nhiều
dầu mỡ và
muối.
Mấy
năm trước đây, North Calorina University và Toronto University (Dr
David Jenkins)
đã thực hiện nhiều khảo cứu về dinh dưỡng nói lên sự ích
lợi của việc ăn chay để ngừa
bệnh tiểu đường và cholesterol trong máu.
Tuy vậy, cũng cần nên biết là ăn chay phải cho
đúng cách nếu không thì
cũng vẫn bị bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch như thường.
Vậy
tại sao một số thầy tu trong chùa cũng bị bệnh? Theo lời giải thích của
tác giả Tâm
Diệu trong trang Thư Viện Hoa Sen: Giải đáp ăn chay. Lý
do:Thay đổi môi trường sống, cơ
thể người Việt Nam thuộc nhóm biến dưỡng
chậm (slow metabolizer), thực phẩm quá
dồi dào tại Hoa Kỳ, tuy là thức
ăn chay nhưng lại sử dụng quá nhiều dầu để nấu, để
chiên, ít hoạt động…
Cho
đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể
nào trị dứt
được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ
đường huyết ở một mức có
thể chấp nhận được mà thôi, bằng cách theo
đuổi một nếp sống lành mạnh như kiêng ăn,
vận động, tập thể dục, giảm
cân, bỏ thuốc lá, và mỗi ngày phải uống các loại thuốc Tây
hạ đường
huyết hoặc chích insulin suốt đời.
Diabetes
has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability to
absorb glucose (sugar). Once these changes happen, the body never fully
regains its ability to process glucose.
However,
people with diabetes can improve their glucose absorption through
careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical
activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose
absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People
with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect
them by regularly monitoring their glucose over time. Through these
strategies, you can slow the progression of the disease and lower the
risk of developing long-term diabetes-related problems. So while
diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic
disease (CDC)
BS Nguyễn Thượng Chánh/nguoiphuongnam