Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi
răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa
còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại . Bây giờ
già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết....
Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có
nhiều mặt khác nhau.
Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói
câu: "Mai mốt tôi già rồi thì..." Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt
ngang lời mẹ, và hỏi lại: " Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế
thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông
thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: " Theo
tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái
niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười
bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà
khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi
là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ. "
Ông Hai nói, có một lúc nào đó,
con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già
nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già
rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng
nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu
mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so
sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.
Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý
bắt đầu yếu. Nhịp độ "gần gũi" của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố
gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu
bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để
không làm tròn "bổn phận" mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những
lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những
chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc
mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún
thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ,
vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không
nghe, không biết.
Có người hỏi ông sao không dùng
viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà
chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông
cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. ông cũng hơi giận,
nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ
mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là
chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm
trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.
Nói về cái tai điếc, ông nói: "Có
một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn
hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay.
Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu
hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ
than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà
họ bảo oan cho mình là quá lớn."
Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi
già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu
dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê
bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy
bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình,
không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương
nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười
vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông
chồng khéo nhịn. Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở
than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi
vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì
hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh
nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.
Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn
sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó,
mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách
vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ
không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai
nói rằng, việc chi mà bực?. Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học
tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm
năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn
toàn, nhưng có thấy, có nghe , đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được
người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã
nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn
trời
Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du
lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh
đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay
không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu
nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước
vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy
ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ,
phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa
đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác
mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta,
thì cũng bẽ bàng.
Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống
mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho
người cao niên. Ông thấy có một "lão trượng" đứng nhìn ông chằm chằm,
như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín
mươi phần là "lão trượng" kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì,
làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ
bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng
kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải
móc căn cước ra mà chứng minh?. Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng
ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.
Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô
cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi
làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời
dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí
huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai
trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh
phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước
tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà,
các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18,
và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi
được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các
bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là
làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.
Dạo sau nầy, khi ông ăn uống,
thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như
cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng
không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho
đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ
thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo
làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén
gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi
bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu,
rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay
quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì.
Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông
trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt,
trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên,
mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba
ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra,
thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều
cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán
tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm,
cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn.
Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra
rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt
quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn
tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng
nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái
miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.
Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ
lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và
béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ
ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon.
Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí
thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi
đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.
Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo
nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe
mạnh và ít bệnh là: 1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường
xuyên, và 3) làm tình đều đều. Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho
người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ,
mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây
giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục thường
xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn
đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng
ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra
từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho
sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt
lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng
ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn
gì cũng thấy ngon.
Ông có quan niệm phóng khoáng hơn
về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp
với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái
chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh
cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới
33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ. Cứ thử
nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi
phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy,
chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ?. Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra.
Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin
một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được
giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn?. Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia
đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì
mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc
làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai
thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru. Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm
một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử,
nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết
điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được
chết sao?. Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt
sùi thương tiếc.
Ông thường nói, trong tuổi già,
sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì
cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời.
Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung
sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết
được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà
thân thể không đau rêm, nhức nhối?. Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ
kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên
miền đất tự do?. Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh
với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều
thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi
khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa. Một người bạn ông
cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà
ra rác". Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm
lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng
không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh
nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường.
Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm
ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra.
Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có
lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số trường hợp xấu, mà
sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới
chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có
phép lạ, mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là
trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là
bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá.
^Ong Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì
có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh.
Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui
riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ
đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.
Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn.
Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ
trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ
làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi
nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là
tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày
trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi
với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn
vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói
với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng
xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu.
Bà sẽ lịch sự hơn. Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng
đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt
hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ
đến cái nhan sắc mùa thu của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế
thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ. Ông nói, ông được nghe chuyện
một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh
hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: "Mình phải biết tự
thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ
không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho
có chất lượng." Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm
giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội
là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ
lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.
Mỗi lần nghe có người than là mất
ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ
đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ
thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15
phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban
đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là
đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải
tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ
đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là
chuyện thường. Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì
dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn
bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ,
không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành
cho đến sáng. Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống
thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng
nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ
hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai,
không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều
kỷ niệm êm ái, thân thương. Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi
chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà
quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì
làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ. Bà ấy thực sự
ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ. Một chị khác than là mất ngủ kinh
niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị
kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông
nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho
đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc
ngon lành dài đến sáng hôm sau. Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng
ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là
không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho
mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon."
Nhiều người già tự đặt cho họ một
kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng
khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như
quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai,
thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với
chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì
mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem
mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn.
Ông không
mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất
cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng
vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ,
ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức.
Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay ? Ông
bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay
về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng
thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà
sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố
phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.
Ông không bao giờ tranh luận gay
gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau?. Trong tuổi
già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì
chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại?. Thắng tranh luận, làm thiên
hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa
mình. Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị
ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng , làm họ vui
hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn. Đến nhà người ta, mà cãi nhau,
tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp
đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được
thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận,
cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa
chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng. Trong tình vợ chồng cũng vậy,
nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về
những điều không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau
đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu. Tranh nhau
thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau,
làm không khí gia đình nặng nề. Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không
thì hoá "lừng". Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình "lừng"
đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên hạ,
mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ
chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây hấn
thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì
cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần
phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol Pot. Ông nầy đã giết chết
hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời
đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây
phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện
đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận.
Khi có ai chê bai ông, ông chẳng
bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu
ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn
cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng
thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ
chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không
ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho
bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.
Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không
bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả
vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho
nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui,
thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm.
Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong
tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn,
và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo
nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được. Tội chi đeo vào thân cái hoài
bảo cho khổ. Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài,
tình yêu. Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng. Có lần,
ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm
nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác
phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói: "Thôi bác ơi,
chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm. Yên
tâm mà dưỡng bệnh đi."
Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba
ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một
thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình,
cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là
không ai khen, ai chửi cả. Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham
gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây
nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em
bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm. Ông
cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn.
Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ. Gặp dịp
vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày
giờ chạy theo lợi lộc."
Mỗi khi có ai mời đi đám cưới,
tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực
mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh.
Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào
lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có
cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói
chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong,
thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông
cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn đậu
không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam."
Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ
phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.
Tản văn của Tràm Cà Mau (bai do banBa Tran gioi thieu)