1. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (U.S CDC), có tới một phần ba đến một nửa việc sử dụng kháng sinh ở người là không cần thiết hoặc không phù hợp.
Hầu hết các trường hợp đau họng, đau nhức xương khớp, sốt và hắt hơi sổ mũi…có nguyên nhân từ các vi rút, mà vi rút lại không bị tiêu diệt bởi kháng sinh, chính vì vậy kháng sinh sẽ không có tác dụng điều trị gì, thậm chí khi dùng kháng sinh sẽ làm cơ thể mệt mỏi hơn hoặc có thêm những tác dụng phụ khác. Khi có những triệu chứng như trên, chúng ta chỉ cần ăn uống nâng cao thể trạng, tăng cường sử dụng hoa quả tươi, hạn chế ra ngoài gió và tiếp xúc với mọi người và có thể điều trị thêm triệu chứng như: ho thì uống thuốc ho, long đờm; sốt thì dùng thuốc hạ sốt; sổ mũi, nghẹt mũi thì dùng nước muối biển, thuốc làm co mạch hoặc kháng histamin…
Chỉ khi bác sĩ xác định nguyên nhân của bệnh là do nhiễm khuẩn hoặc cảm cúm có bội nhiễm vi khuẩn thì mới được sử dụng những loại kháng sinh phù hợp. Anh chị cần ghi nhớ: Việc xác định bệnh do nhiễm khuẩn và quyết định sử dụng kháng sinh do bác sĩ, mình không tự ý sử dụng.
2. Trẻ em bị tiêu chảy cũng như vậy, rất nhiều trường hợp có nguyên nhân là vi rút nên chỉ cần lưu ý bổ sung nước và điện giải, tăng cường cho trẻ bú.. Khi chúng ta sử dụng kháng sinh với trẻ bị tiêu chảy do vi rút không chỉ làm cho trẻ mệt mỏi hơn mà hệ vi khuẩn đường ruột còn non nớt của trẻ cũng bị rối loạn nghiêm trọng => trẻ càng tiêu chảy nặng hơn và ảnh hưởng lâu dài sau này đó là việc trẻ sẽ rất dễ bị rối loạn tiêu hoá, ăn khó tiêu hoặc lười ăn, trẻ cũng dễ bị nhiễm các bệnh lý đường ruột khác…
Nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng, khi hệ vi khuẩn của trẻ bị rối loạn, lớn lên trẻ dị bị dị ứng, béo phì hơn những trẻ khác.
3. Nhiều người có suy nghĩ “Kháng sinh chữa bách bệnh”, sự thật lại không như vậy.
Để dể tưởng tương, bệnh tật có thể chia làm 7 nhóm, bao gồm: các bệnh lý bẩm sinh, các bệnh lý chuyển hoá, các bệnh lý do ngộ độc, các bệnh lý miễn dịch, các bệnh lý do thoái hoá, các bệnh lý nhiễm trùng và những chấn thương do tai nạn gây ra. Trong 7 nhóm trên, hầu như chỉ có nhóm bệnh lý nhiễm trùng và những tai nạn rách da chảy máu bệnh nhân mới có chỉ định sử dụng kháng sinh, đa số các bệnh lý còn lại sử dụng những nhóm thuốc chuyên biệt khác. Nói vậy để mọi người hình dung ra, kháng sinh không có chỉ định sử dụng nhiều như chúng ta nghĩ.
4. Kháng sinh đang là vấn đề y tế nhức nhối toàn cầu:
Khi một loại kháng sinh không còn có tác dụng trên một chủng vi khuẩn nhất định, những vi khuẩn này được gọi là kháng kháng sinh và đây chính là là một trong những vấn đề sức khỏe bức xúc nhất trên thế giới hiện nay.
Riêng ở Mỹ mỗi năm có khoảng 2 triệu ca nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh và trong đó có đến 23 000 ca tử vong, ngoài ra, những chủng vi khuẩn kháng thuốc nguy hiểm như tụ cầu vàng, lao kháng thuốc, ký sinh trùng sốt rét cũng đã được “tạo ra” và gây ra rất nhiều thách thức cho các bác sĩ.
Bất kỳ loại vi khuẩn nào tồn tại trong điều trị kháng sinh đều có thể nhân lên và truyền lại tính kháng của nó cho thế hệ sau. Nguy hiểm hơn, một số vi khuẩn có thể chuyển các đặc tính kháng thuốc của chúng sang các chủng vi khuẩn khác làm cho tình trạng kháng thuốc càng trở nên phức tạp và lan rộng. Thói quen sử dụng kháng sinh trong hầu hết các trường hợp bệnh tật (kể cả nhiễm vi rút), thói quen không tuân thủ liệu trình điều trị của bác sĩ (Bs kê đơn 7 ngày, dùng vài ngày khỏi đã bỏ thuốc hoặc vài ngày chưa cải thiện đã thay thuốc), thói quen sử dụng kháng sinh mạnh “dập” bệnh từ đầu của các bác sĩ…đã góp phần đẩy nhanh tốc độ kháng kháng sinh trong cộng đồng.
5. Mặt trái khác của kháng sinh:
➢ Khi dùng kéo dài, kháng sinh gây rối loạn nghiêm trọng hệ vi khuẩn đường ruốt, làm mất cân bằng hoạt động đường ruột => tăng nguy cơ mắc bệnh lý tự miễn như bệnh viêm đường ruột và bệnh tiêu chảy phân mỡ..
➢ Ngộ độc gan: Thuốc kháng sinh cũng là “khắc tinh” đối với gan. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thuốc kháng sinh rất hại cho mô gan, làm cho các chỉ số xét nghiệm chức năng gan như AST và ALT tăng vọt, trong đó phải kể đến kháng sinh Azithromycin, Clindamycin, kháng sinh nhóm metronidazole.
➢ Kháng sinh thuộc nhóm thuốc đầu bảng dễ gây dị ứng, sốc phản vệ, đặc biệt nhóm Penicilin, Amoxicilin…
➢ Mất cân bằng hệ vi khuẩn trong cơ thể, tao bón, chán ăn, chậm lớn..
➢ Ảnh hưởng đến một số cơ quan quan trọng ở trẻ em: xương khớp, men răng, tang nguy cơ hen suyễn và dị ứng..
➢ Giảm tiết sữa sau sinh.
6. Thuốc tây bản chất là những HOÁ CHẤT TỔNG HỢP: bất đắc dĩ chúng ta mới cho vào cơ thể để trị bệnh,! Một số “Ảnh hưởng khủng khiếp” của thuốc tây có thể liệt kê ra đây:
➢ Với thuốc giảm đau: Có hai loại thuốc giảm đau hay dùng đó là Tylenol và thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Tylenol là thuốc giảm đau có chứa acetaminophen, một phân tử đa năng có tác dụng giảm sốt, giảm đau rất tốt và được dung rộng rãi với bệnh viêm khớp mãn tính. Tuy nhiên, acetaminophen là dược phẩm có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho gan nếu sử dụng không đúng hướng dẫn, đặc biệt là những người có bệnh lý về gan hoặc hay uống rượu, ngoài ra đã có rất nhiều những nghiên cứu chỉ ra rằng Acetaminophen có liên quan đến khoảng hơn 30% các trường hợp suy thận, những nghiên cứu này được thực hiện ở những bệnh nhân suy thận và trong số đó có những bệnh nhân lạm dụng acetaminophen.
Với NSAID, dị ứng nghiêm trọng và xuất huyết đường tiêu hoá là hai biến chứng hay gặp nhất, đặc biệt ở những người có bệnh lý viêm khớp kéo dài và kèm uống rượu.
➢ Thuốc tránh thai: Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, các loại thuốc tránh thai đường uống có thể làm giảm lượng axit folic, một số loại vitamin và khoáng chất như magiê, selen, kẽm.. điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, dẫn đến khả năng tăng nguy cơ gây dị tật thai nhi, chuyển dạ đẻ non
. Nguyên nhân vẫn chưa được xác định rõ, nhưng theo các nhà khoa học, rất có thể nguyên nhân liên quan đến estrogen và progestogens có trong thuốc tránh thai.
➢ Với thuốc an thần, gây ngủ: Đã có rất nhiều khuyến cáo khi sử dụng nhóm thuốc này tuy nhiên có vẻ như mọi người đang cố tình làm ngơ. Thuốc gây tình trạng nghiện, nặng hơn nữa là gây tử vong nếu dùng quá liều là những mặt trái khi lạm dụng nhóm thuốc này.
Ngoài ra thuốc cũng có nguy cơ làm mất trí nhớ thoáng qua hoặc mất trí nhớ kéo dài kéo dài, thời gian thải trừ thuốc có thể lên đến 20 giờ sau khi dùng cũng là một nguy cơ khi ta lạm dụng nhóm thuốc an thần, gây ngủ.
➢ Aspirin: hay còn có tên khác là axit acetylsalicylic là một loại thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm, ức chế kết tập tiểu cầu, đây là thuốc đầu tay được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Tuy nhiên những tác dụng phụ do aspirin “mang đến” cũng rất khủng khiếp như gây tăng nguy cơ xuất huyết (chảy máu mũi, xuất huyết dạ dày..), mất nước và tăng kali máu, nhiễm toan chuyển hoá và suy hô hấp.
Ngoài ra với trẻ em dưới 12 tuổi, chúng ta không nên dùng Aspirin khi trẻ sốt hoặc cảm cúm, thuỷ đậu vì có thể gây suy thận cấp cũng như tăng nguy cơ trẻ bị hội chứng Reye (hội chứng não-gan rất nguy hiểm).
➢ Thuốc trị viêm loét dạ dày: Nhóm thuốc kháng axit (antacid) có thể gây nhiễm kiềm toàn thân, gây cạn kiệt phosphonat và táo bón, chán ăn. Sự hấp thu các vitamin nhóm B, đặc biệt là vitamin B12, folate và vitamin C cũng bị ảnh hưởng bởi các thuốc ức chế tiết axit dịch vị. Nếu bạn cần sử dụng thuốc ức chế axit dài ngày, điều quan trọng là tuân thủ chế độ ăn uống giàu chất dinh dưỡng và dễ tiêu hoá.
Nhóm thuốc ức chế bơm proton hiện nay được ưu tiên dung nhiều nhất vì tác dụng nhanh, mạnh và ít tác dụng phụ, tuy nhiên khi sử dụng bệnh nhân vẫn thường đau đầu, buồn nôn và có thể là cả tiêu chảy. Với việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này có thể dẫn đến một số hậu quả như loãng xương, thiếu máu do thiếu sắt và lâu lành vết thương.
➢ Thuốc dân gian, gia truyền: Hiện nay ở VN số lượng bệnh nhân tìm đến thuốc dân gian, gia truyền, thuốc Nam vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối cao. Hiệu quả điều trị của thuốc thì chỉ có bệnh nhân cảm nhận được, tuy nhiên mặt trái của thuốc cũng không ít.
Hàm lượng-thành phần thuốc, phụ phẩm, tác dụng và những tác dụng không mong muốn…là những thông tin mà chúng ta rất khó nắm tận tường khi lựa chọn sử dụng nhóm thuốc này. Có rất nhiều bệnh nhân đến viện sau một thời gian dùng thuốc gia truyền đã bị suy thận, suy gan, loét đường tiêu hoá nghiêm trọng, xuất huyết dưới da, rối loạn phân bố mỡ, loãng xương, phù mặt hoặc phù toàn thân…Thỉnh thoảng các Bs còn gặp bệnh nhân bị ngộ độc kim loại nặng, sốc thuốc phải vào viện cấp cứu.
Ngoài ra, hiện nay đã có nhiều trường hợp thuốc tây (mà chủ yếu là corticoid) đã được các “Thầy lang” pha trộn vào trong các gói thuốc cổ truyền để làm tăng nhanh tác dụng của thuốc nhưng lại chưa lường hết được những tác dụng phụ mà nó mang lại. Với nhóm thuốc này, Bs khuyên mọi người nên tìm hiểu kỹ ngọn nguồn, tham khảo các Bs và báo sớm những triệu chứng bất thường sau khi dùng thuốc.
➢ Thuốc các con cháu gửi về: Bs khuyên nên chỉ sử dụng khi đọc được tên thuốc, biết được thành phần, tác dụng, tác dụng phụ và cả hạn sử dụng của thuốc. Tốt nhất vẫn nên tham khảo các Bs hoặc dược sĩ. Tuyệt đối không nên tự ý dung thuốc mà ngôn ngữ ghi trên hộp, thành phần tác dụng của thuốc…mình không đọc được.
7. Thuốc và ung thư: Các thuốc hoá chất điều trị ung thư chứa tác nhân alkyl hoá như Cyclophosphamid, Chlorambucil, Busulfan….được chứng minh cũng góp phần gây nên các u lympho, bệnh bạch cầu và các thể ung thư khác. Ngoài ra, một số trong chúng cũng là tác nhân ức chế miễn dịch mạnh, vì vậy được sử dụng trong các bệnh miễn dịch, bao gồm viêm khớp dạng thấp và bệnh u hạt Wegener.
Việc sử dụng lâu dài Diethylstibestrol (sử dụng trong điều trị ức chế tiết sữa sau sinh, các thể viêm âm đạo, triệu chứng mãn kinh…) được cho là gây ung thư nội mạc tử cung sau mãn kinh và là nguyên nhân của ung thư âm đạo của con do tiếp xúc trong buồng tử cung (Theo BỆNH HỌC CÁC KHỐI U-Trung tâm nghiên cứu & phát hiện sớm ung thư-Nhà xuất bản Y Học 2008).
Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng có mối liên quan giữa việc sử dụng kháng sinh dài ngày với tỷ lệ bị ung thư đại tràng, buồng trứng và ung thư thận tăng cao ở cả hai giới, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài hoặc các hóc-môn sinh dục nữ làm tăng nguy cơ bị ung thư buồng trứng và cổ tử cung ở nữ giới.
8. Giải pháp hạn chế sự lạm dụng và tác dụng phụ của việc dùng thuốc:
➢ Thực hành vệ sinh tốt để tránh nhiễm trùng. Giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn trong thực phẩm: hạn chế uống sữa tươi, rửa tay thường xuyên và nấu thức ăn đến nhiệt độ sôi chín an toàn.
➢ Tiêm chủng đầy đủ theo khuyến cáo. Một số loại vắc-xin được đề nghị bảo vệ chống nhiễm khuẩn, chẳng hạn như bệnh bạch hầu và ho gà
➢ Cần ghi nhớ: hơn 80% cảm cúm thông thường là do vi rút, không cần dùng kháng sinh. Nhiều trẻ bị tiêu chảy cũng như vậy.
➢ Khi ốm đau, cần khám tại các trung tâm chính thống, chuyên khoa, uy tín. Phải thăm khám lâm sàng, dùng thuốc theo đơn và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không được tự ý đi mua thuốc dùng, tuyệt đối không được bỏ thuốc giữa chừng hoặc thêm thuốc, thay thuốc khi chưa báo cho bác sĩ điều trị. Không bao giờ uống thuốc kháng sinh theo đơn của người khác, không sử dụng thuốc quá hạn sử dụng hoặc đã bóc, mở lâu ngày.
➢ Tìm hiểu về thuốc trước khi sử dụng. Tất cả các loại thuốc theo toa đều có tờ thông tin gọi là Consumer Medicine Information (CMI). Chúng bao gồm thông tin về sử dụng, tác dụng phụ và biện pháp phòng ngừa. Dược sĩ có thể cung cấp CMI cho thuốc của anh chị.
➢Hãy hỏi dược sĩ để được tư vấn nếu muốn mua thuốc không bán theo toa. Họ có thể tư vấn về tác dụng phụ và tương tác với các loại thuốc khác mà chúng ta đang dùng. Hãy cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc chúng ta đang uống, bao gồm thuốc theo toa, thuốc mua tự do và thuốc bổ sung.
➢ Hãy xin tư vấn từ bác sĩ về ăn uống, sinh hoạt, thể thao và lối sống nếu chúng giúp làm giảm nhu cầu dùng thuốc, vì một số bệnh lý có thể được quản lý tốt hơn với những thay đổi về chế độ ăn uống và tập thể dục thường xuyên.
➢ Có một đánh giá hàng năm của tất cả các loại thuốc chúng ta đang dùng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người lớn tuổi bởi vì, khi mọi người già đi, họ có nhiều khả năng bị tác dụng phụ của thuốc hơn. Bất kỳ loại thuốc được coi là không còn cần thiết nên được dừng lại => Hãy hỏi bác sĩ, dược sĩ nếu đang dùng thuốc để có thể được hưởng lợi từ một “Đánh giá hàng năm” này.
➢ Dị ứng, sốc thuốc là những biến chứng nguy hiểm của việc dùng thuốc, đặc biệt là kháng sinh, vậy nên cần chủ động thông báo cho bác sĩ, dược sĩ biết được tiền sử dị ứng của mình hoặc người thân trước khi được kê đơn và mua thuốc.
➢ Kiểm tra chức năng gan thận định kỳ khi dùng thuốc tây kéo dài, với những đối tượng nguy cơ cao như cơ địa dị ứng, bệnh lý gan-thận (suy gan, viêm gan, suy thận..), phụ nữ có thai & cho con bú, người có bệnh lý dạ dày…chúng ta cần tham khảo kỹ ý kiến của bác sĩ và dược sĩ trước khi dùng thuốc.
➢ Đối với những trẻ điều trị nhiễm trùng dai dẳng hoặc nhiễm trùng nhiều lần mà cần sử dụng kháng sinh nhiều thì nên sử dụng kháng sinh đồ cho trẻ để lựa chọn kháng sinh hợp lý nhất, tránh việc không đáp ứng hoặc đề phòng kháng kháng sinh.
➢ Mỗi gia đình nên xây dựng cho mình một chế độ ăn sử dụng những “kháng sinh thiên nhiên” như tỏi (chữa ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn), men vi sinh và sữa chua, ớt tươi, củ nghệ, các loài hành…nhằm giúp mỗi thành viên trong gia đình có hệ miễn dịch tốt, hạn chế ốm đau & việc phải sử dụng thuốc.
BS Trần Quốc Khánh/nguoiphuongnam