Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Sự khác biệt giữa ợ nóng và cơn đau tim







                                       
 

Ợ nóng và cơn đau tim là gì?

Ợ nóng (heartburn)
Ợ nóng là một triệu chứng, chứ không phải là một bệnh. Đó là cảm giác, thường là đau rát, do trào ngược axit. Trào ngược axit là chất chứa trong dạ dày bị trào ngược lên thực quản.
Ợ nóng không hề liên quan đến tim. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ vị trí của cơn đau ở ngực.


 
Dạ dày tạo ra chất nhầy để bảo vệ niêm mạc của nó chống lại  axit  sử dụng cho tiêu hóa thức ăn. Thực quản thiếu sự bảo vệ này, vì thế trào ngược axit gây tổn thương niêm mạc thực quản. Tuy nhiên đối với nhiều người, trào ngược axit không gây ra tổn thương như vậy.
Còn chưa rõ tại sao những người bị trào ngược a xít lại bị đau. Có lẽ các dây thần kinh nhạy cảm a xít góp phần gây ra cảm giác đau.

Cơn đau tim (heart attack)

Cơn đau tim là hiện tượng gây ra bởi bệnh ở động mạch vành. Những mạch máu này cung cấp máu cho tim, giữ cho tim sống nhờ năng lượng và oxy.




Khi  động mạch vành bị nghẽn làm mất nguồn cung cấp máu cho một phần cơ tim thì  cơn đau tim.sẽ xẩy ra
Cơn đau tim có thể khiến tim ngừng hoạt động. Tình trạng này được gọi là ngừng tim. Người bị ngừng tim sẽ không có đáp ứng và không bắt được mạch.





Các triệu chứng của ợ nóng và cơn đau tim

Các triệu chứng ơ nóng

Ợ nóng tạo ra cảm giác bỏng rát trong thực quản (ống dẫn thức ăn từ miệng xuống dạ dày). Đau kiểu bỏng rát này thường xảy ra ngay trên dạ dày. A xít cũng có thể trào ngược lên cao hơn, thậm chí tới tận thành sau của miệng.

Các triệu chứng khác của bệnh trào ngược a xít có thể đi kèm với ợ nóng, bao gồm buồn nôn, đầy hơi, và ợ hơi

Các triệu chứng của cơn đau tim

Cơn đau tim thường xảy ra (nhưng không phải luôn luôn) với các triệu chứng cổ điển như  sau:
• Đau ngực thường được mô tả như bị đè, bị bóp, tức nặng, siết chặt hoặc đau nhức.
• Đau ngực cảm giác như có một khối rất nặng đè lên ngực
• Đau có thể đến rồi đi, nhưng kéo dài hơn một vài phút 
Không phải tất cả cơn đau tim đều có những triệu chứng như nhau. Triệu chứng có thể nhẹ hoặc nặng, và một số người không hề có triệu chứng gì.
Cơn đau hoặc khó chịu ở ngực thường là ở giữa ngực hoặc ở giữa ngực trái, nhưng có thể không như vậy. Đau có thể lan sang các vùng khác – xuống một hoặc cả hai cánh tay, lên cổ, hàm, hoặc xuyên ra vùng lung trên hoặc lưng giữa

                  

 Ngoài đau ngực , cơn đau tim còn có các triệu chứng khác như
• Toát mồ hôi lạnh
• Thở nông
• Cảm giác bệnh hoặc buồn nôn
• Nôn
• Cảm giác rất mệt mỏi hoặc thiếu sức sống
• Cảm giác chóng mặt hoặc choáng váng

Những người ít gặp các triệu chứng khi bị đau tim bao gồm người cao tuổi hoặc người bị bệnh tiểu đường. Tuy nhiên những người này vẫn có thể biểu hiển các triệu chứng khác, như khó thở."Cảm giác khó tiêu" có thể là một dấu hiệu của bệnh tim nhất là ở những người bị bệnh tiểu đường.

Sự khác biệt giữa các triệu chứng của ợ nóng và cơn đau tim

. Ợ nóng có xu hướng nặng hơn sau khi ăn và khi nằm - mặc dù cơn đau tim cũng có thể xảy ra sau bữa ăn.
• Ợ nóng có thể thuyên giảm nhờ các loại thuốc giảm axit trong dạ dày
• Ợ nóng không gây ra những triệu chứng toàn thân như khó thở
• Đau tim không gây đầy hơi hoặc ợ hơi, nhưng những triệu chứng này có thể xảy ra với ợ nóng

Đôi khi rất khó biết liệu các triệu chứng là do cơn đau tim hay do ợ nóng. Các bác sĩ nhận xét rằng rất khó đưa ra chẩn đoán dựa trên các triệu chứng đơn thuần, và thường phải căn cứ vào các xét nghiệm.

Khi chính bản thân mình có triệu chứng các bác sĩ cũng thấy chúng khó hiểu. Ví dụ, một bác sĩ tại Đại học Harvard kể lại câu chuyện bị bệnh tim của mình.Ông có triệu chứng nóng rát ở vùng bụng trên mỗi khi gắng sức, nhưng việc điều trị ợ nóng tỏ ra không có tác dụng. Cho mãi đến khi bị khó thở và không làm được việc gì ông mới đến bệnh viện. Xét nghiệm cho thấy bệnh tim đang sắp gây ra một cơn đau tim.

Điều trị ợ nóng và cơn đau tim

Điều trị ơ nóng


Chẩn đoán ợ nóng được đưa ra thông qua phối hợp của:
• Đánh giá các triệu chứng - bác sĩ sẽ hỏi cơn đau xảy ra khi nào, bao lâu một lần và kéo dài bao lâu, mức độ nghiêm trọng, và đau thay đổi như thế nào với bữa ăn, tư thế và v.v…
• Các triệu chứng đáp ứng như thế nào với điều trị giảm axit dạ dày
• Nội soi thực quản để đánh giá tổn thương niêm mạc thực quản
• Đo độ pH trong thực quản để đánh giá mức độ axit
Chẩn đoán thường được đưa ra dựa trên các triệu chứng. Sau đó các bác sĩ có thể điều trị thử để xác định chẩn đoán nếu việc điều trị có hiệu quả.

Điều trị cơn đau tim
Nếu có bất kỳ nghi ngờ gì về một cơn đau tim, việc nhanh chóng đến phòng cấp cứu là rất quan trọng .Các bác sĩ cấp cứu sẽ xem xét các triệu chứng và kiểm tra bệnh nhân. Các xét nghiệm phát hiện cơn đau tim có thể bao gồm:
Điện tâm đồ – ghi dấu nhịp đập và nhịp điệu của tim bằng cách đo hoạt động điện của tim đi đỉnh đến đáy tim

máy điện tâm đồ

Test gắng sức (stress test) – theo dõi tim, hô hấp, và các triệu chứng trong khi chạy trên máy chạy bộ
Siêu âm tim (heart ultrasound), sử dụng sóng siêu âm để quan sát tim.
X-quang, xét nghiệm máu, và những khám xét khác như chụp động mạch có tiêm thuốc cản quang.Chụp động mạch có tiêm thuốc cản quang là một trong những cách để các bác sĩ kiểm tra cơn đau tim.

Các phượng pháp điều trị gồm có
.Thông tim là một hình thức điều trị. Một bác sĩ sẽ nong động mạch bị hẹp qua da từ bẹn hoặc cánh tay.Một ống mỏng, mèm mại được luồn qua mạch máu đến chỗ bị ảnh hưởng tại tim. Một quả bóng được sử dụng để nong động mạch và cải thiện dòng máu chảy qua đó. Một ống lưới có thể được đặt tại chỗ, gọi là stent, để giữ cho mạch máu thông suốt.
 
Động mạch được nong bỡi quả bóng thổi phồng, sau đó một ống lưới (stent) đươc đặt tại chỗ để giữ cho mach thông suốt

.Các thuốc tiêu sợi huyết hoặc phá huyết khối là một lựa chọn điều trị khác cho cơn đau tim  Những thuốc này phá vỡ cục máu đông có thể được chỉ định trong khi bệnh nhân chờ thông tim.Các thuốc khác có thể tiếp tục ngăn cản tình trạng đông máu tiếp diễn, bao gồm các thuốc chống đông như aspirin và heparin.

 
Tim trước và sau khi bắc cầu động mạch

. Các lựa chọn phẫu thuật có thể bao gồm bắc cầu động mạch vành. Trong đó bác sĩ sẽ ghép một đoạn mạch máu mới lấy từ phần khác của cơ thể để vượt qua đoạn mạch vành bị tắc.

Theo Medicalnewstoday -Cầm Tú