Sáng ba mươi Tết 
năm nay, Trường bỗng dưng lù lù xuất hiện tại cửa nhà tôi. Một cách bất ngờ, 
không báo trước –do một đệ tam nhân cho địa chỉ, nhưng không biết số điện thoại 
của tôi. “Để thăm và chúc Tết bạn”, Trường cười nói. Lần đầu tiên, sau ba mươi 
mốt năm. Tôi quen Trường, một cách sơ giao, từ khi mới đặt chân đến Mỹ, năm 
1985. Thỉnh thoảng gặp nhau tại nhà thờ, cũng chào hỏi, à ới vài câu cho đúng 
thủ tục của người “có văn hóa”, nhưng trong thâm tâm không bên nào muốn bước 
thêm bước nữa để trở thành bạn, đúng nghĩa. Bởi anh rất đạo đức, đạo mạo, cẩn 
trọng, mặc dù suýt soát bằng tuổi, ngược hẳn với tôi tính tình bộc trực, bất cần 
đời, thấy chướng tai gai mắt là đốp chát liền. Thấy tôi đâu, anh không quên mời 
gia nhập hội này hội nọ trong giáo xứ, lại còn nhắc năng xưng tội, rước lễ  –điều mà tôi luôn hứa, cho qua chuyện, nhưng 
không bao giờ làm. Riết rồi anh chán, và tôi cũng tìm cách trốn 
anh. 
      Trường sống một mình, không vợ con, kiểu 
tu tại gia. Nghe nói anh đã được phong vài chức thánh nhỏ, mà tôi cũng chẳng hỏi 
anh tại sao không thừa thắng xông lên đi làm thầy sáu hay linh mục, cho ấm thân. 
Công việc chính, âm thầm, mà anh tự đặt, là đi thăm viếng những đồng hương bị 
bệnh đang nằm điều trị ở nhà thương, hoặc tại gia, để an ủi, nâng đỡ tinh thần, 
đọc kinh cầu nguyện, có khi đem Mình Thánh Chúa đến cho họ v.v…
      Ngoài ra, Trường còn tình nguyện đi thăm 
các ông bà già trong những nhà dưỡng lão. Đó cũng là mục đích chính đã khiến 
Trường đến tôi bất ngờ sáng nay. “Tiện đường, rủ bạn cùng đi cho vui ấy mà”, anh 
nói. Tôi hỏi vặn: “Bộ hết người để rủ đi hay sao mà ông cứ nhắm tôi hoài vậy 
cà?” Anh cười, không trả lời. Mặc dù lu bu bởi trăm thứ việc không tên, tôi cũng 
thấy mềm lòng và mặc cảm tội lỗi với anh. Bèn OK. 
      1. Nhà dưỡng lão tư mà Trường chở tôi đến cũng ở cùng khu 
với nhà tôi. Một căn nhà diện tích trung bình, sạch sẽ, thoáng mát, có một vườn 
nhỏ đầy hoa muôn sắc, xen lẫn với rau thơm đủ loại mà chủ nhân trồng thêm, cho 
những bữa ăn thuần túy Việt Nam. Bên trong cải biến thành một gian rộng, chia ra 
sáu phòng nhỏ vừa đủ cho sáu giường nằm. Có bếp và phòng vệ sinh chung. Bình 
thường, tổng số “cư dân” –toàn là trên bảy, tám bó– là sáu, hôm nay chỉ còn ba, 
vì các cụ lần lượt từ giã cõi trần, hoặc con cái muốn “đổi nhà dưỡng lão, với 
nhiều lý do riêng”, bà chủ nhà nói. 
      Hôm ấy, Trường muốn thăm gặp, đặc biệt, 
một cụ ông 98 tuổi, Công giáo, không thân nhân. Vì vậy, chúng tôi vào thẳng 
phòng cụ trước, với sự hướng dẫn của bà chủ và một chị chăm sóc viên 
(caretaker), tên Sang, chuyên giúp các cụ ăn uống, làm vệ sinh, tắm gội, thay 
tã, dắt đi bộ ngoài vườn v.v…  Thấy có 
khách, cụ ông đang nằm cố gắng ngồi dậy, mặc dù Trường giơ tay ngăn cản. Trông 
cụ còn tráng kiện so với số tuổi, nói năng hoạt bát, nhưng đã lẫn, quên hết 
chuyện mới, ví dụ, vừa được Sang cho ăn đó, mà cụ lại không nhớ, kêu đói. Khiến 
chị phải cải chính, chỉ chỉ vào bụng của cụ. Trái lại, những chuyện cũ năm xửa 
năm xưa, cụ nhớ rất kỹ, và kể ra vanh vách, tuy không mạch lạc. Đặc biệt, nhớ cả 
bài thơ tình tám câu mà cụ nói cụ làm để tán tỉnh cô hàng xóm, thuở còn trẻ, “dễ 
thương ơi là dễ thương” (lời cụ), rồi cụ hứng chí đọc đi đọc lại bài thơ, lần 
nào cũng sai vài chữ, vài câu, rồi cười khanh khách, sảng khoái. Cười xong, cụ 
bỗng rơm rớm nước mắt, như trong lòng mang nặng tâm sự, và nằm vật ra giường. 
Trong lúc đó, bà chủ và chị Sang, vì bận việc, đã kín đáo bỏ đi, để mặc khách 
chuyện trò với cụ.
      Rời cụ ông 98 tuổi, chúng tôi thăm viếng 
xã giao, ngoài chương trình, hai “cư dân” còn lại, gồm một nam, một nữ. Cụ ông 
này, 85 tuổi, yếu lắm, bỏ ăn, một tuần trước đó, than khó thở, được xe cấp cứu 
chở đi bệnh viện nằm một ngày, và đưa về lại. Chủ nhà báo tin cho mấy đứa con 
cụ, nhưng ai cũng trả lời không thể ghé thăm, nại cớ bận đi làm. Nằm bất động 
trên giường, cụ chỉ lắng nghe, mà không nói, mà có nói cũng thều thào, không 
thành tiếng. Nửa tháng sau, tình cờ gặp lại Sang, tôi hỏi thăm về cụ, và nghe 
chị kể: “Mấy hôm sau khi hai anh gặp cụ thì cụ qua đời, lúc bấy giờ con cái mới 
tới, gọi nhà quàn cho xe đến chở xác cụ đi thiêu”. 
      2. Rồi chúng tôi vào phòng cụ bà duy nhất. Cụ đã 86 tuổi, 
trông rất yếu. những còn tỉnh táo, minh mẫn, không lẫn chút nào. Gương mặt nhăn 
nheo phảng phất một nét đẹp thanh tú của ngày xưa còn sót lại. Sang nói, cụ được 
con cái thỉnh thoảng đến thăm. 
      Lúc chúng tôi bước vào, cụ đang ngồi trên 
xe lăn, kế bên là Sang, tay cầm muỗng cơm, khom người dụ dỗ, thiếu điều năn nỉ, 
cụ mở miệng, để đút cho cụ ăn. Nhưng cụ lắc đầu, nhất quyết tuyệt thực. Chúng 
tôi nghe lời đối đáp giữa hai người:
      - Cụ ăn vài miếng giùm con đi. Đã hai 
ngày rồi, mà cụ không có gì trong ruột…
      Cụ 
òa khóc, nức nở:
      - Tôi nhớ con, nhớ cháu lắm, cô cho tôi 
về thăm nhà ba ngày Tết đi, rồi tôi trở lại, tôi hứa mà, giúp tôi đi, cô ơi. Con 
tôi không tới đón tôi về, thì tôi nhất định ngậm miệng…
      Mủi lòng, tôi tiến đến bên, cúi xuống, 
choàng vai cụ, vỗ nhẹ lưng, và lấy giấy Kleenex lau nước mắt cho cụ, trong khi 
Sang nói tiếp:
      - Cụ ăn đi, rồi chốc nữa, mấy anh mấy chị 
sẽ đến đón cụ về…
      Cụ ngừng khóc, vẻ mặt u buồn đổi sang một 
chút hớn hở, nhưng còn thút thít, hoặc nấc lên, tức tưởi, như trẻ thơ, và hỏi 
lại:
      - Thật nhé?
      - Dạ thật.
      Lúc đó, cụ mới hả miệng, chịu ăn hết chén 
cơm, có rau, thịt, và uống hết một ly nước cam vắt. Xong xuôi, như thường lệ, 
Sang bế cụ lên giường, để cụ nghỉ trưa.
      Ra khỏi phòng, chị khẽ kể cho hai chúng tôi rằng, theo 
lời yêu cầu của cụ, bà chủ đã gọi các con cháu, khá đông, đến rước cụ về thăm 
nhà trong dịp Tết, nhưng ai cũng trả lời là bận đi làm, không thể đưa cụ về 
được. Chị nói: “Khi nãy, em phải nói như thế để cho cụ chịu ăn, chứ thật tình em 
biết qua bà chủ là họ sẽ không đến. Hóa ra mình nói dối với cụ”. Tôi trả lời: “Chị đừng áy náy. Lúc còn chiến tranh, 
tại Phan Thiết, tôi cũng đã một lần nói dối với bà mẹ của một người lính ở đơn 
vị vừa chết trận. Gặp bà mẹ anh đang bị bệnh nặng nằm thoi thóp trên giường, hỏi 
thăm con, tôi không nỡ, và không thể, nói thật… Trong trường hợp này, chị đã 
phản ứng không khác chi tôi.”      
      Trường đứng im, lắc đầu, không nói gì. 
Còn tôi, tự dưng, thấy tái tê, đau đớn, như có trăm nghìn mũi kim vô hình đâm 
xuyên trái tim. Chợt nghe vọng về bên tai những câu hát quen thuộc, bất hủ, 
tưởng đã chôn vùi trong ký ức từ lâu:
      “Mẹ mẹ là dòng 
suối dịu hiền. Mẹ mẹ là bài hát thần tiên. Là bóng mát trên cao. Là mắt 
sáng trăng sao. Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Mẹ mẹ là lọn mía ngọt ngào. 
Mẹ mẹ là nải chuối buồng cau. Là tiếng dế đêm thâu”… (Phạm Thế Mỹ). 
      Hay “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào / 
Tình Mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào / Lời Mẹ êm ái như đồng lúa 
chiều rì rào / Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ yêu”… (Y Vân). 
      Hay “Maman, Maman jolie (Mẹ ơi, Mẹ xinh đẹp 
ơi) / Maman tu es la plus belle du monde 
(Mẹ, mẹ đẹp nhất trần đời) / Aucune 
autre à la ronde n'est plus jolie (Không ai chung quanh đẹp hơn)”… 
(Dalida).                        
      3. 
Và tôi bỗng thấy nhớ Mẹ dấu yêu của tôi 
quay quắt –đã ra đi, về với Tuổi, từ bao thu rồi. Thầm ước mong, và tưởng tượng, 
một ngày nào Mẹ thức dậy từ giấc ngủ ngàn năm, và cũng bảo tôi đưa về thăm nhà, 
vì nhớ con, nhớ cháu. Để Mẹ ôm chặt các con, các cháu vào lòng, không rời, trong 
vòng tay trìu mến. Để cho tôi khóc cạn nước mắt, trên vai gầy của Mẹ, trên trọn 
cuộc đời này. Khóc cho mẹ tôi, giờ đây vẫn nằm dưới mộ sâu, vô vàn cách trở. 
Khóc cho tất cả những người mẹ thân xác còn đó mà một nửa hồn đã chết, như hoa 
tàn rụng, trong nỗi tuyệt vọng vô bờ và chờ đợi mỏi mòn.
     Trong nỗi cô đơn tột cùng. Trong nỗi cô 
đơn hóa thân. Qua hình hài của một bà cụ 86 
tuổi tội nghiệp, một bà mẹ đáng thương đã bỏ ăn, bỏ uống, vì không được con cái 
đón về nhà để vui Xuân cùng với gia đình. Một bà mẹ bất hạnh, khổ đau, không 
quen biết –mà tôi đã không hẹn đến để thăm gặp, để lau hộ những dòng lệ héo hắt 
tuôn rơi, vào sáng ngày ba mươi Tết, năm nay, tại một nhà dưỡng lão 
Portland.
 Kim Thanh (quinhon11.com)