Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác lắm.             Ðúng ra là thông Ðộng Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân yêu của             chúng ta. 
Thay vì trơn tru mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa,             tắc nghẽn với nhiều chất khác nhau bám vào thành của huyết quản.             
Ðộng Mạch Vành (coronary artery) bao bọc trái tim             như một cái vương miện với hai nhánh phải và trái và nhận máu trực             tiếp từ Ðộng Mạch Chủ (aorta). Tế bào tim được tiếp tế oxy và chất             dinh dưỡng từ động mạch vành. Nếu vì một lý do nào đó mà động mạch             này bị nghẹt thì sự nuôi dưỡng bị trở ngại, tim thiếu dưỡng khí, báo              động bằng cơn đau thắt ngực (angina). 
Trong đa số các trường hợp, tắc nghẽn là do chất             béo bám vào mặt trong của thành động mạch. Ðó là bệnh Vữa Xơ Ðộng             Mạch. 
Ngày nay, nhiều người cứ nói vữa xơ là hậu quả của             nếp sống dư thừa trong thời buổi văn minh tiến bộ hiện đại. Thực ra             dấu hiệu vữa xơ đã tìm thấy ở xác ướp bên Ai Cập cả nhiều ngàn năm             về trước. 
Vữa xơ động mạch (atherosclerosis) là bệnh trong              đó các mảng gồm nhiều chất khác nhau bám vào mặt trong thành động             mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị gián đoạn. Thành phần chính             của mảng này là chất béo, chất cholesterol cộng thêm các chất phụ              khác như calcium, tế bào xơ. Mảng xơ vữa có thể tan vỡ, đưa tới             chứng huyết khối. 
Vữa xơ là một diễn tiến phức tạp, phát triển chậm,             xuất hiện từ tuổi nhỏ và trầm trọng lên với thời gian. Theo nhiều             khoa học gia, bệnh bắt đầu với sự tổn thương ở lớp tế bào trong cùng             của động mạch. 
Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, ba rủi ro đã được chứng             minh làm tổn thương lòng động mạch là: 
- 1. Mức độ cholesterol và triglyceride trong máu             lên quá cao; 
- 2. Cao huyết áp; 
- 3. Ảnh hưởng của hút thuốc lá. 
Ngoài ra vữa xơ còn hay xảy ra ở người béo phì, mắc bệnh tiểu đường, có nhiều căng thẳng tâm thần và không vận động cơ thể.
Di truyền cũng tham dự phần nhỏ. Nếu cả cha lẫn mẹ              bị vữa xơ thì con có nhiều triển vọng bị bệnh. 
Cũng còn phải kể tới tuổi tác và giới tính.              
Người dưới năm mươi tuổi ít vữa xơ hơn người trên             tuổi này. 
Trước khi mãn kinh, phụ nữ ít bị vữa xơ hơn nam             giới nhờ sự bảo vệ của kích thích tố nữ, nhưng từ tuổi mãn kinh thì             nam nữ bị vữa xơ bằng nhau.
Vữa xơ có thể thấy ở các động mạch cỡ trung và lớn.             Nếu ở động mạch vành nuôi dưỡng tim thì đưa tới thiếu máu cơ tim;              động mạch cảnh nuôi dưỡng não bộ sẽ có tai biến mạch máu não, động             mạch nuôi dưỡng chi dưới với hoại tử chi; động mạch võng mạc đưa tới             khiếm thị, mù lòa... 
Tắc nghẽn thì phải kiếm cách thông, giống như              thông ống cống nước từ bếp ra vườn. Nhưng thông cống chỉ việc tống             cây sào dài vào hoặc đổ nửa lít nước hóa chất là xong. Còn mạch máu             thì nằm ở xa lại mỏng manh, khó mà đạt tới. Cũng đã có nhiều dược             phẩm để giải tỏa tắc nghẽn nhưng công hiệu chậm. Cho nên nếu thông              được như thông cống thì hay biết mấy. 
Thế là các nhà y khoa học lại vắt tay lên trán,             tìm kiếm kỹ thuật, thuốc men. 
Và mở đầu với sự tò mò , mạo hiểm của một sinh             viên nội trú y khoa người Ðức, anh Werner Frossmann. 
Ðó là vào năm 1929. Từ lâu, anh ta vẫn muốn tìm             cách để thám hiểm trái tim mà không gây ra thương tổn gì.              
Sau khi đã có một ý niệm, anh trình bầy với các vị              thầy, các vị đàn anh về điều anh định làm. Nhưng mọi người đều không             tin tưởng và cấm không cho anh thực hiện ý tưởng điên rồ đó trong             bệnh viện. 
Anh bèn năn nỉ một nữ điều dưỡng viên cho mượn một              ống thông. Anh đưa ống thông từ mạch máu ở khuỷu tay của mình, luồn             dần lên tim. Ðặt ống xong, anh lại năn nỉ một đồng nghiệp điện tuyến,             chụp cho một tấm hình X -Quang ngực. Và thấy đầu ống thông đã an             toàn nằm ở tim mà không gây ra khó khăn gì cho sức khỏe của mình.             
Werner hăm hở tường trình sự việc với ông thầy.             Chẳng những không được khen mà còn bị khiển trách, không cho thực             tập ngành tim tại bệnh viện. Anh ta đành học về tiết niệu và tiếp             tục lén lút nghiên cứu, thọc thêm tới 15 lần nữa vào tim mạch của             mình. Nghiên cứu được anh công bố trong y giới, nhưng không ai để ý.             Buồn tình, anh về một tỉnh lẻ, hành nghề y, kiếm bạc cắc cho qua             ngày. 
Rồi một ngày đẹp trời của năm 1956, Werner được             mời ra nhận giải Nobel với hai nhà Tim học Andreas Frderic Coumand             và Dickinson W. Richards. Hai vị bác sĩ này đã dựa trên kết quả các             mạo hiểm trước đây của Werner để tìm cách chữa tắc nghẽn động mạch.             Năm 1941, hai ông đã thành công trong việc dùng ống thông tim để đo             lưu lượng máu từ tim ra. 
Các nhà y khoa học tiếp tục nghiên cứu.              
Tới năm 1977 thì bác sĩ Andreas Gruentzig của Bệnh             Viện Ðại Học Zurich, Thụy Sĩ, là người đầu tiên thực hiện kỹ thuật             thông mạch máu bằng bóng (balloon) ở người. Sau đó, bác sĩ Gruentzig             sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục tìm hiểu về bệnh tim và làm giầu             trí thức cho quốc gia này. Balloon làm bằng một loại plastic gọi là             polyethylene terephthalate (PET) rất bền bỉ và thay đổi hình dạng dễ              dàng 
Ngày 3 tháng 8 năm 1994, Cơ quan Quản lý Thực phẩm Dược phẩm             Hoa Kỳ (FDA) công nhận Balloon-Expandable –Stent do bác sĩ Richards Schatz             chế biến để làm thông và mở rộng động mạch tim bị tắc nghẽn vì mỡ             đóng lên. 
Ngày nay, cả triệu bệnh nhân nghẹt tim được thông             bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật rất phổ thông, được mang ra dùng tại hầu             hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. 
Phương pháp thông tim giản dị và dễ thực hiện hơn             là giải phẫu bắc cầu (by-pass surgery), nhưng một trở ngại là từ 30              – 50% bệnh nhân cần thông lại vì nghẹt mạch có thể tái diễn. Và một             phương tiện mới có tên là stent được các nhà chuyên môn đặt để tránh             sự tái tắc nghẹt này. 
Xác định tắc nghẽn mạch máu
Vữa xơ động mạch được xác định bằng kỹ thuật chụp             tim thông X-Quang (cardiac catheterization). Ðây là một kỹ thuật rất             hữu ích và khá chính xác để biết tình trạng tốt xấu của hệ thống             tuần hoàn. 

Một ống hướng dẫn bằng plastic mềm nhỏ được đưa             vào mạch máu ở cánh tay hoặc ở bẹn. Ống được đẩy dọc theo mạch máu              để vào lòng trái tim hoặc động mạch nuôi tim. Một loại hóa chất cản             quang đặc biệt được chuyền vào ống hướng dẫn. Chất này giúp ta nhìn             rõ được tình trạng trong lòng mạch máu hoặc các phòng trái tim qua             máy X-Quang. 
Chụp X-Quang mạch máu được áp dụng trong các             trường hợp sau: 
-Khi có dấu hiệu đau động mạch tim như là cơn đau             trước ngực; 
-Ðau không biết nguyên nhân ở ngực, cằm, cổ, cánh             tay mà các thử nghiệm khác đều không xác định được tại sao;              
-Khi có cơn đau mới xảy ra ở ngực; 
-Không có triệu chứng gì nhưng vài thử nghiệm khác             cho là có thể bị bệnh tim mạch; 
-Khi sẽ có phẫu thuật không liên hệ tới tim mạch             nhưng có thể có rủi ro bệnh tim trong khi giải phẫu; 
-Khi sẽ có giải phẫu về van tim; 
-Khi đã có bệnh tim bẩm sinh; 
-Khi đang bị suy tim; 
-Khi có chấn thương ngực hoặc một bệnh tim nào đó.             
Thông Tim-Ðặt Lưới 
Khi tình trạng vữa xơ động mạch tim không có kết             quả tốt với thay đổi nếp sống, dược phẩm, hoặc khi cơn đau tim càng             ngày càng trầm trọng thì bác sĩ có thể đề nghị làm thông tim- đặt             lưới (angioplasty balloon). 
Trước khi thực hiện, bệnh nhân sẽ được khám tổng             quát và làm một số thử nghiệm như: 
1-Chụp một phim x-Quang đen trắng của lồng ngực.             
Việc này rất dễ thực hiện nhưng cho ta nhiều điều             cần biết: hình dạng lớn nhỏ của trái tim, của đại động mạch và tĩnh             mạch phổi; tình trạng toàn hảo của hai lá phổi, màng phổi và phế              quản. 
2-Làm Ðiện Tâm Ðồ. 
Mỗi làn trái tim đập một nhịp thì có những dòng              điện phát ra từ một số tế bào đặc biệt của trái tim. Luồng điện chạy             khắp tim, khiến tim co bóp. Ðiện tâm đồ ghi lại các sinh hoạt điện             năng này. 
Nhìn hình tâm đồ, bác sĩ có thể chẩn đoán các rối             loạn về nhịp đập của tim; cấu tạo bất thường to nhỏ của tim, sự nuôi             dưỡng của tế bào tim với oxy; có tiền sử hoặc đang có cơn đau tim;             theo dõi tình trạng tim khi đang giải phẫu hoặc khi thông động mạch.             
3-Thử nghiệm máu để coi mức cao thấp của             cholesterol lành HDL, cholesterol dữ LDL; của các yếu tố giúp máu             bớt loãng prothrombine, fibrinogen; các diêu tố tim CPK, LDH,             Troponin mà khi lên cao có thể là dấu hiệu của cơn đau tim...              
Tới ngày thông tim thì được nhắn nhủ không ăn từ              nửa đêm hôm trước, điều chỉnh liều lượng hoặc ngưng một vài loại             thuốc đang dùng, nhất là thuốc loãng máu, thuốc tiểu đường.              
Kỹ thuật sẽ được một bác sĩ chuyên khoa tim có tu             nghiệp thêm về phương pháp này thực hiện với sự tiếp tay của một             nhóm chuyên viên điều dưỡng và kỹ thuật. Kỹ thuật thường được làm ở              một trung tâm y tế có đơn vị tim mạch, để phòng hờ trường hợp cần             cấp cứu giải phẫu tim. 
Thông tim thường thực hiện ở động mạch đùi, đôi             khi động mạch cánh tay hoặc cổ tay. Bệnh nhân không cần gây mê tổng             quát mà chỉ một chút thuốc tê được chích vào háng để giảm đau. Do đó             ta tỉnh táo trong suốt thời gian phương pháp được thực hiện.              
Một vết cắt nhỏ trên da ở bẹn được rạch và một ống             ngắn nhỏ được đẩy vào động mạch. Qua ống này, một ống thông hướng              đạo dài hơn, có thể uốn cong, được luồn vào trong. Dưới sự hướng dẫn             của X- quang, ống thông được đưa lên động mạch tim, nơi bị nghẹt.              Ống đi lên rất nhẹ nhàng, ta không cảm thấy đau gì, ngoại trừ một             chút thôn thốn ở bẹn mà thôi. Nếu đau thì cho bác sĩ hay ngay để họ             đối phó. 
Một chút dung dịch mầu cản quang được bơm vào ống,             tới động mạch vành để chụp hình X quang, coi tắc nghẽn lớn nhỏ ra             sao. 

Rồi một ống khác nhỏ hơn đầu có mang một bong bóng (balloon)            xẹp được chuyền vào trong ống hướng đạo. Khi lên tới chỗ bị tắc             nghẽn, thì bong bóng được bơm phồng lên. Lúc này máu tới tim sẽ giảm             chút ít và ta thấy hơi đau nhói nơi ngực. Bong bóng được bơm phồng             lên, xẹp xuống vài lần, sẽ đè vào nơi động mạch dính đầy chất béo,             làm lòng động mạch mở rộng. Xong nhiệm vụ, bóng được làm xẹp trở lại.             
Công hiệu của nong bóng không vĩnh viễn. Theo             thống kê, có tới 1/3 bệnh nhân có thể bị nghẹt trở lại trong vòng             vài tháng. 
Ðể ngăn ngừa tái tắc nghẽn, một lưới gọi là stent             nhỏ xíu được phát minh. Lưới nằm trên ống hướng đạo bong bóng, được              đưa tới chỗ nghẹt. Bóng được bơm phồng, lưới mở ra và bám ép vào             thành động mạch. Lưới an toàn nằm đó suốt đời người như một cái giá             chống đỡ không cho động mạch nghẹt trở lại. Lưới làm bằng hợp kim             không rỉ, không hư hao, không di chuyển và không trở ngại khi ta đi             qua máy rà kim loại ở phi trường hoặc chup X-Quang cơ thể..              
Ống hướng dẫn được rút ra và phương pháp thông tim              đặt lưới hoàn tất. Trước sau chỉ mất vài giờ đồng hồ, đôi khi chỉ ba             mươi phút dưới bàn tay điêu luyện của một chuyên viên đặt ống giầu             kinh nghiệm. 
Thường thường ta cần nằm lại nhà thương khoảng 24             giờ để bác sĩ theo dõi tình trạng sau giải phẫu. 
Các ống đều được rút ra. Vết cắt trên da nơi bẹn             và động mạch được băng bó để tránh chẩy máu, nhiễm trùng và để vết             thương mau lành. Tim được tâm điện đồ theo dõi, để phát hiện và             phòng ngừa biến chứng. Nên nằm nghỉ, chân duỗi thẳng 
Một vài thuốc chống huyết cục như aspirin, thuốc             kháng tiểu cầu, thuốc an thần được bác sĩ biên toa. Nên uống thuốc             theo liều lượng, thời gian mà bác sĩ đã dặn. 
Về nhà, nên nghỉ ngơi, tránh làm việc quá nặng             trong dăm ngày, uống nhiều nước để loại chất mầu cản quang.              
Ðể ý các dấu hiệu bất thường như chẩy máu, nhiễm             trùng sưng đỏ, đau nơi vết thương ở bẹn, nhiệt độ cơ thể lên cao,             trong người mệt mỏi, đau ngực, khó thở. Thông báo cho bác sĩ ngay.             
Vài tuần sau, khi bác sĩ đồng ý, ta có thể đi làm             trở lại được. 
Và nhớ giữ ngày tái khám theo hẹn của bác sĩ.             
Thế là từ nay ta không còn đau ngực, không còn lo             ngại cơn suy tim, tai biến não, tàn phế cơ thể. Nhiều người thấy da             dẻ hồng hào, mặt mũi tươi rói, sinh hoạt gia tăng, yêu đời hơn.             
Nhưng nên lưu ý lành mạnh nếp sống, bỏ hút thuốc             lá, ăn nhiều rau trái cây, bớt chất béo bão hòa động vật, vận động             cơ thể đều đặn, giảm cân nếu quá mập phì, chữa các bệnh kinh niên             như cao huyết áp, cao cholesterol, bệnh tiểu đường. 
Và nhẹ nhàng sống trong niềm vui của Tâm Thân An             Lạc với gia đình, thân hữu. 
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức -nguoiphuongnam.com