Miền Nam là   phần lãnh thổ sau cùng và tận cùng về phía nam của nước ta. So với hai miền   kia, quả có nhiều khác biệt. Khác biệt về nhiều thứ như: con người miền Nam   với tánh tình hiền hoà, chơn chất, phóng khoáng  hiếu khách. Đó là về mặt   tích cực, về mặt”tiêu   cực” (theo một nghĩa nào đó) thì người miền Nam thích hưởng nhàn,   sống hơi an phận, không thích tranh đấu, bon chen, và vì vậy không biết nhiều   mưu mô, mánh khoé. Và có lẽ vì vậy, mà thưòng bị  thua kém phần nào so   với đồng bào nói chung của hai miền kia. 
Chỉ xin lạm bàn đôi điều, mà chúng ta    đã nhận ra với biết bao thấm thía… Riêng xét về mặt hình thể, địa thế, mảnh    đất miền Nam cũng khác, khác khá nhiều. Đây là một vùng bình nguyên, thế đất    đa phần bằng phẳng, chỉ một ít có những thế đất cao, như đồi, trảng, giồng.   Tuy nhiên, cũng phải kể một vài tỉnh vơí những ngọn núi không cao   lắm, chỉ khoảng dưới ngàn mét như: Chứa Chan, Bà Đen,núi Dinh,Thị    Vải  và cụm dãy núi Thất Sơn. Điểm đặc biệt hiếm có của miền Nam là sông   nước mênh mông, do hai hệ thống  sông Đồng Nai và Cửu Long. Thêm vào đó   còn có cả những kinh đào, là đặc trưng không có ở miền khác.
 Về cư dân, dĩ    nhiên cũng có phần khác biệt, vì nơi nầy vốn xưa có cư dân gốc Cam Bốt, Chàm,   người Stiêng, Mạ, Mnông...  cùng là nhóm ngưòi Tàu không nhỏ theo làn   sóng đi khai phá do các lãnh đạo của họ là Mạc Cửu, Trần Thưọng Xuyên... Tất   cả đã hoà quyện thành một “ngưòi Nam” như chúng ta đã biết. Riêng về   địa danh, chúng tôi đã sưu tập, phân tích đúc kết có sàng lọc ,một sự sưu tập   chắc hẳn còn quá nhiều thiếu sót, phiến diện. 
Về địa danh thì miền Nam với   những đặc trưng như: nhiều tên mang chữ “cái”,    nhiều tên mang chữ kinh, rạch, xẽo, nhiều tên mang âm hưởng ngôn ngữ bản    địa (nhứt là từ tiếng Cam Bốt), cũng như vì kỵ húy hay ước vọng   hoà bình, mang tên “đẹp” như “phú, mỹ, lợi, hưng...". Và    điểm đặc biệt khác của miền Nam, về địa danh, còn có ‘miệt’, mà chắc   chắn không có tại hai miền kia.
Phần   tài liệu nầy, chúng tôi trích ra từ một sưu tập khá dài, chỉ với mục đích góp   vui cùng quý đồng hương trong dịp ngơi nghĩ, cuối tuần. Riêng với các bạn trẻ,    cũng là một dịp đễ biết thêm đôi chút về quê nhà. Thú thiệt, chúng tôi chỉ âu   lo, hay đúng hơn là đau đớn vì biết đâu một ngày nào đó ”Việt   Nam tôi đâu, còn hay đã mất”… Và chắc hẳn, không ai còn quan   tâm đến mảnh đất hình cong chữ S nằm ngạo nghễ trên bờ biển Đông, còn chi mà   biết ‘miệt trên, miệt dưới hay miệt   vưòn..'.  mà tài liệu đuợc trình bày ngắn gọn sau    đây.
   
Theo nhà học giả Paulus Của,   trong quyển “Đại   Nam Quốc Âm Tự Vị,”    định nghiã miệt là: nhỏ mọn, xứ miền, dảy đất. Theo một giải thích khác, miệt   có thể phát xuất từ hiện tượng đọc “trại ra”,    tức biến âm, từ miền   đọc trại thành “miệt”
   
Tại miền Nam có bao nhiêu miệt,   còn tùy theo sự phân chia của vài tác giả. Trước tiên, theo tác giả    Nguyễn   Vĩnh Long   Hồ (Người Long   Hồ),   trong tài liệu trường thiên mang tên “Đất   Phương Nam”   (dài trên 2000 trang khổ lớn) đã phân ra các miệt như sau    :
   
    - miệt Đồng   Tháp : gồm Tân An, Mộc Hóa và Cao Lảnh.
   
    - miệt Vườn   : gồm Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ    và Long Xuyên.
   
    - miệt Biển   : gồm Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và   Bạc Liêu.
   
      - miệt Thất Sơn : gồm Châu Đốc và Bảy   Núi (Thất Sơn).
      - miệt Thứ U Minh : gồm Cà Mau,   Chương Thiện và Rạch Giá.
      - miệt Hà Tiên : gồm Hà Tiên, Giàng Thành   (Kiên Giang) và Phú Quốc.
Miệt vườn với   biết bao cây trái thơm ngon như cây dừa   xiêm với bao buồng trái nặng trĩu.
Theo một nghiên cứu khác, nhà văn   Sơn Nam chia ra các miệt như sau:
      - miệt trên : gồm Biên Hòa, Gia Định,Bà   Rịa.
    - miệt Cao   Lảnh : gồm vùng Cao Lảnh ngày   nay.
      - miệt Đồng Tháp   Mười : gồm   vùng lòng chảo ĐTM
      - miệt Mỹ Vãng : gồm Mỹ    Tho, Vĩnh Long.
      - miệt Dưới : gồm Rạch   Giá,Cà Mau.
  - miệt   Chợ Thủ,   ông Chưỏng : gồm   nơi sông Hậu,sông Tiền,Long Xuyên.
      - miệt Xà Tón,Bảy Núi :   gồm vùng Thất Sơn, Tri Tôn.
Cũng cần ghi nhận là vùng miền Đông Nam Phần hầu như    ít xếp vào các miệt, có chăng là chỉ được gọi chung là “miệt trên” mà   thôi. Trong dân gian, người ta còn thoãi mái, đặt thêm những miệt nữa, thí dụ    người dân ở miệt miền Tây, có thể gọi vùng  từ Sài gòn trở lên là    “miệt trên”, hay ngược lại. Thêm nữa, sự phân chia miệt cũng chỉ tương    đối, như xếp tỉnh Bến Tre vào ”miệt biển“ cũng không hoàn toàn   chính xác, vì tỉnh nầy phần giáp biển, nhưng cũng là tỉnh có những vườn trái   cây nổi tiếng như Cái Mơn. . .
Ngoài ra, cũng còn một cách chia    đơn giản các miệt như sau:
a/ Miệt   vườn : gồm gọi chung các nơi   cao ráo,có vườn cây ăn trái ven sông Tiền, sông Hậu thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh   Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.
Đề cập đến miệt vườn, người ta không thể không kể sơ    qua về những trái cây rất thơm ngon, hầu như cả miền Tây và một vài tỉnh miền    Đông, nơi nào cũng có không ít thì nhiều. Ngày nay, tại “xứ người” đã   xuất hiện nhiều cây ăn trái giống hệt như tại quê nhà, nhưng mà, dường như    cũng còn gì đó khan khác  thật khó tìm thấy, có phải chăng đó là hương vị    quê nhà... Sau đây là một số vườn khá nổi tiếng, ta hãy nhìn lại một vài cây    ăn trái thân quen mà bao năm qua ít có dịp nhìn lại
Vườn trái cây An Bình    thuộc huyện Long Hồ (Vỉnh   Long).
Tại tỉnh Vỉnh Long,  khá nhiều   vuờn cây ăn trái như ở Cái Vồn, An Bình. Tại những khu vưòn nầy, cũng có đủ    các loại cây trái thơm ngon, như : chôm chôm, xoài, và đặc biệt có giống bưởi   Năm Roi, bưởi da xanh. Nhắc đến tên Long Hồ, người ta bỗng như nghe văng vẳng    đâu đây những câu ca ngọt lịm của ”ông Cò quận Chín’.
Vườn   trái cây Mỹ Khánh,   huyện Phong Điền-Cần Thơ
Đi từ Cần Thơ về hướng Sóc Trăng, chỉ khoảng 6   km.Các vườn vùng nầy có trồng trên 20 loại trái cây như mận, xoài, chôm chôm,   dâu... và đặc biệt quít đường. Nhìn hình bên dưới, khách du có còn nhìn những   chùm quít vàng tươi, hay gương mặt trăng trắng xinh xinh của gái miệt   vườn.
Vườn   trái cây Vĩnh Kim, huyện   Châu Thành, Tiền Giang.
Đặc biệt đây có loại vú sửa Lò Rèn, trái tròn căng,   vỏ mỏng, thơm ngọt. Ngoài ra còn sầu riêng, chôm chôm, bưởi. . . Xin lạm   bàn  về vú sửa và cách ăn vú sửa, trước tiên về phân lọai, có vài loại   khác nhau như: trái màu tím, hay màu mở gà vàng ươm, trái tròn căng hay hơi   thon dài; nhưng mà  cho dù màu sắc hay hình dáng có khác, bên trong vú   sửa cũng cùng tràn đầy sửa ngọt. Đặc biệt, cách ăn vú sửa đúng nhứt là phải...   xoa bóp vài lượt và nắm kéo cái cuống núm, xong kê miệng vào nút từ từ. Nhớ   đừng nút nhanh và mạnh quá, không khéo coi chừng sửa tràn ra dính cả mồm. Đấy,    ăn vú sửa có cái thú là vậy.
     Nơi xã Vĩnh   Kim-Tiền Giang. Tại đây, có   ngôi chợ. Mà hầu hết là   mặt hàng vú sửa.
Cũng nhân đây, cần ghi nhận đôi   chuyện xưa và nay thật vô cùng đáng nhớ. Chuyện xưa là cũng tại gần vùng nầy   có con sông “Rạch Gầm”, nơi vua Quang Trung đã đánh tan đội quân Xiêm   La (Thái) với 50.000 quân. Chuyện nay, chỉ cách đây khoảng trên 40 năm, tại   gần nơi nầy có căn cứ Đồng Tâm, bản doanh của sư đoàn 7/BB Việt Nam Cộng Hoà.   Vào trưa ngày 30/4/1975, chuẩn tướng Trần văn Hai, tư lệnh sư đoàn đã anh dũng   tuẩn tiết. Trước khi nổ súng tự sát, ông đã nhờ người mang về cho mẹ số tiền   lương khoảng 75.000 đồng VN thời đó. Thật là một vị tướng anh hùng, thật là   một đứa con hiếu thảo ngàn đời đáng mến mộ tôn thờ (Xin xem chi tiết cũng   trong thiên tài liệu nầy)
Vườn   trái cây Cái Bè - Tiền   Giang.
Tỉnh Tiền Giang, Mỹ Tho hay Định Tường cũ, là nơi    đồng bằng sông nước. Tại nơi  nầy, cây trái vườn tược sum xuê, đặc biệt   nơi Cái Bè, nhiều loại trái cây thơm ngon, đặc biệt có xoài cát Hoà Lộc. Chỉ    cách Sài gòn trên dưới 70 km, đây là vựa trái cây lớn nhứt đồng bằng sông   Cửu.
  Cây   mít sai trái
                                 (Vườn ở     Cái Bè-Tiền Giang).
       Vườn   trái cây Cái Mơn - Chợ Lách - Bến   Tre
Vốn được bao bọc bởi 4 bề sông nước (sông   Cổ Chiên và Hàm Luông) với biết bao cây trái thơm ngon, đặc biệt là giống   sầu riêng cơm vàng hạt lép. Đây được đánh giá là nơi sản xuất cây giống lớn   nhứt Việt Nam. Cũng nên nhắc lại, Cái Mơn là  sinh quán của  một   nhân vật thật vô cùng nổi tiếng. Đó là nhà bác học Trương Vĩnh Ký, ông là   người có công hiệu đính, hoàn thiện hơn chữ quốc ngữ, để được trở thành một   thứ chữ tiện lợi cho chúng ta. Riêng về chuyện cây trái, theo tài liệu có ghi,   ông họ Vĩnh khi sang học tại các nơi nơi tu viện tại  Cam Bốt, Mã Lai...   khi đi về đã mang một số cây giống, gíúp cải thiện cây trái tốt tươi và thom   ngon của miệt Cái Mơn.Cũng nhân đây, lại nói về công lao và sự “bất   công” của văn học sử miền Nam. Tại miền Nam, qua một thời gian dài, chẳng   hiểu do đâu mà nhiều nhân tài văn học ,trong đó đặc biệt văn hào Trưong Vĩnh   Ký và nhà văn Hồ Biểu Chánh  đã bị “đối xử bất công”, đã   bị “cho việt vị” hàng nhiều thế hệ. Công lao và văn tài của hai vị miền   Nam nầy đã chỉ được giảng dạy rất hạn chế và “sơ sài” trong giới học   sinh trung học và cả đại học.
                                Nơi vuờn trái   cây Cái Mơn-Bến Tre.
Vườn   trái cây Lái Thiêu -    Thuận An - Bình   Dương
Chỉ cách Sài gòn khoảng 20 cây số,rất tiện đi về    trong ngày. Tại khu vực nầy, khá nhiều vườn với những trái cây thơm ngon như:    xoài, dâu, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt... Du khách có thể vào vườn, tự hái   trái hoặc nhờ cả những chủ vườn cung cấp cho mình những bữa ăn đồng quê... Tóm   lại, đi vườn trái cây Lái Thiêu là một buổi picnic vô cùng thú  vị.
Ngoài những vườn vừa nêu, cũng còn   nhiều nơi khác như miệt Long Thành.   (Long Khánh), Kế Sách (Ba Xuyên).Nha Mân (Sa Đéc). .   .
b/- Miệt đồng (ruộng): gồm   các vùng tương đối thấp, ít có vườn, và nhiều đồng ruộng như: Sóc Trăng,   Long Xuyên, Chương Thiện...
c/- Miệt thứ : gồm vùng “lâm sắc”(theo sách Đại Nam Nhứt Thống   Chí) mà dân địa phương gọi là miệt thứ, là vùng ven u minh ,gồm   Rạch  Giá, Cà Mau và phần nào Bạc Liêu.Gọi là miệt thứ, vì vùng nầy   có 10 con rạch mang thứ tự từ thứ số một..., con rạch thứ  10 chảy ra   biển. Đây là vùng xa xôi, hiền từ, quê mùa.
Vào thời xa xưa, con gái miệt vườn, gả về miệt thứ U   Minh, ngồi buồn nhớ quê nhà, cất lên lời ca áo não.
                                     Đêm đêm ra đứng hàng ba,
                              Trông về quê mẹ, lệ sa buồn buồn
                              Sương khuya ướt đẩm giàn bầu
                            Em về    miệt thứ bỏ sầu cho ai.
Ngày nay, phương tiên giao thông   rộng mở, miệt thứ không còn là nơi “muổi kêu như sáo thổi. . ", nhưng   xin hỏi mấy ai không mềm lòng,buồn chết được, khi nghe ca sĩ Phi Nhung nỉ non   bài “em   về miệt thứ”. Người ta không biết ,”em” Phi Nhung về miệt thứ    có ai cùng về;nếu chưa chắc không ít người tình nguyện về theo. Đề cập đến   miệt, người dân miền Tây có suy nghĩ khá ngộ, từ ”miệt đồng” đôi khi   cũng dùng để chỉ những dân “quê  mùa”, nhưng chỉ với hàm ý đùa   cợt, không phải quá khinh khi.
Trong một   tác phẩm mang tên ”Văn   Minh Miệt Vườn”, tác   giả nhà nghiên cứu Sơn Nam cũng đề cập nhiều khía cạnh về nét văn minh nầy.    Được biết tài liệu trên xuất bản trước năm 1975, và sau nầy có tái bản với vài   thay đổi, kể cả những “thay đổi” ngay con người của ông ấy. Thật đáng   tiếc vô cùng. Bỏ qua những “xu thế” đáng tiếc nơi con người Sơn Nam,   tác giả đã nêu lên một nhận xét mà chúng ta dễ dàng chấp nhận, là những    “cáí hơn” của miệt vườn (so với miệt    đồng). Đó là:
      - miệt vườn có nhiều huê lợi   hơn (làm vườn khoẻ, nhẹ nhàng. . ),   nhưng thu lợi nhiều hơn
       - đất vườn cao hơn đất ruộng là lẽ đương nhiên vì phải   cho cây trái không bị úng thủy.
      - và    đặc biệt con gái miệt vườn đẹp và trắng hơn, vì không phải lội xuống bùn   xình,dải dầu mưa nắng. Cụ thể như con gái thuộc vùng Nha Mân (Sa Đéc)   đẹp có tiếng. Đây chỉ là trên cơ bản, nhiều khi con gái miệt ruộng lại “rắn   rỏi, mặn mà“ hơn. Riêng những chàng trai nông dân, đặc biệt miền Tây   sông nước, ngày xưa cách đây khoảng nửa thế kỷ, đa số chỉ quên với ruộng vườn.   Nơi miệt đồng, miệt ruộng như Sóc Trăng, trai lớn lên chỉ biết làm ruộng mà   thôi. Tánh tình thiệt thà chơn chất trong mọi thứ, kể cả chuyện “ghẹo   gái’ như một chàng trai miệt Ngả Năm với lời tỏ tình thật dễ thương, qua   bài:
                               GHẸO  NGƯỜI    DƯNG
                     Sông   Ngả Năm chải dìa năm ngả
                   Tui dí em chắc có lươn   diên
                   Mới gặp đả thấy thuông   liền
                   Mến người dân dả, chớ gái thị thiền thiếu   chi.
                   Nói   ga, chỉ xợ em cười
                   Tui đây chỉ thích những   người gái quê
                   Mùi dầu dừa,tui gất   mê
                   Mê luôn cả mái tóc thề của   em.
                   Gái thị thiền,tui hổng ham
                   Cưới dìa hỏng biết chịu làm... guộng không   ?
                   Hay là chỉ biết ngồi   không
                   Lo xửa bóng xắc, buồn lòng tía   tui.
                   Em ơi, đây có mấy   lời,
                   Tui ti ít học, nhưng   người xiêng năng
                   Mần guộng dỏi nhứt chong   làng,
                   Mấy thằng chạc tủi, hổng bằng tui    đâu.
                   Em mà ưng chịu làm dâu,
                   Tía má xẻ xắm mâm chầu   hỏi ngay.
                 “Cưới dợ thì cưới   liền tai,
                   Chớ để lâu ngày,thiên   hạ dèm pha”
                   Ga   diên xẻ thưa má ba,
                   Đến gặp thầy Xáu, coi ga tốt   ngày
                   Tía má tui tính lâu nay,
                   Tui là con út, “phần   mầy hưởng  chung”.
                   Guộng dườn còn xáo chục  công
                   Em dìa hai đứa mình cùng chung   lo.
                   Tía má theo ông theo bà,
                   Căn nhà thừa tự, xẻ là   của tui.
                   Đây đã kể gỏ đầu đui,
                   Đó làm chồng dợ, đề gồi đẻ    con
                   Chỉ chừn phản  một chục   chơn,
                   Có nếp, có tẻ,  thì còn dì   dui.
                   Em ôi, xao hỏng chả lời
                   Thò lỏ con mắt nhìn tui mà   cười???
(Bài   thơ trên là “tâm tình” của một cậu dân quê tại Ngả Năm(Sóc Trăng),mà cũng cả    miền Nam, vào khoảng thập kỷ 1950. Lời lẽ mộc   mạc, phát âm sai chánh tả. . . Sau đây là nguyên bài đúng giọng và chánh   tả.
                          GHẸO    NGƯỜI  DƯNG
               Sông Ngả Năm chảy về năm ngả
          Tui với em   chắc có lương duyên
          Mới gặp đã   thấy thương liền
          Mến người   dân dả, (chớ gái) thị thiền thiếu chi(1)
          Nói ra chỉ    sợ em cười
          Tui đây   chỉ thích những người gái quê
          Mùi dầu   dừa, tui rất mê (2)
          Mê luôn cả    mái tóc thể của em.
          Gái thị    thiền,tui hổng ham
          Cưới dìa   hỏng biết chịu làm ruộng không?
          Hay là chỉ    biết ngồi không,
          Lo sửa   bóng sắc,buồn lòng tía tui.
          Em ơi, đây   có mấy lời
          Tui tuy ít   học, nhưng người siêng năng.
          Mần ruộng   giỏi nhứt trong làng
            Mấy thằng trạc tuổi hổng bằng tui    đâu.
            Em mà ưng chịu làm dâu,
          Tía má sẽ    sắm mâm trầu hỏi ngay
             Cưới vợ thi cưới liền tay
            Chớ để lâu ngày thiên hạ dèm pha
             Ra giêng sẽ thưa má ba,
          Đến gặp   thấy Sáu, coi ra tốt ngày.
          Tía má tui   tính lâu nay,
            Tui là con út,“phần mầy hưởng   chung”.
          Ruộng vườn   còn sáu  chục công,
            Em dìa hai đứa mình  cùng chung   lo.
          Tía má ...   theo ông theo bà,
            Căn nhà thừa tự, cũng là của tui.
            Đây đã kể rõ đầu đuôi,
            Đó làm chồng vợ, để rồi . . đẻ    con.
          Chỉ chừng   khoản một chục trơn,
          Có nếp có   tẻ, thì còn gì vui
          Em ơi, sao   hổng trả lời
            Thò lỏ con mắt, nhìn tui mà   cười  
                                          Hoài   Việt
(1)-    Thị thiền là thị thành, (2)thời xưa, các cô thưòng dùng dầu dừa chải tóc cho   óng mưọt. Ước gì, tui trẻ lại như khoảng 1960, và được một lần ngửi mùi dầu   dừa trên mái tóc của một cô thôn nữ Sóc Trăng quê mình.
(bài do ban MậuTrần giới thiệu)






