Cách  đây hai mươi năm, Trung Quốc có sách “Người Trung Quốc Xấu Xí” của tác  giả Bá Dương (Bo Yang). Ở Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là: “The  ugly American” của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm  1958 đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Dường như có nhiều  liên quan giữa sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và  sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc.
 Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research)  sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin  tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.-  Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu  đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người  Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt). 
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).[to save face or to show off].
8.-  Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình  huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này  ít khi có.
9.-  Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc).
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người  Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này? 
Người xưa cũng đã nhận ra :
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành  lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của  người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người lớn  tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Tôi chỉ xin trích lại dưới  đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì.  Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn  tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự  mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế,  bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời  đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân  tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có  một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của  Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ  thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái  ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày  nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được.  Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì  cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường,  những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi  cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của  những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như  nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu  ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về  sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là  đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho  thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người  mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự  người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất  sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? …
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của  người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho  chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước  được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm  cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn  mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế,  thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”,  một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 – 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo  đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham  dự các kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung  thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của  những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị  hoàn thất vọng .
              “Trước là làm đẹp sau là ấm thân”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung  Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại  nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch,  nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của  cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Tiêu chuẩn của cuộc sống hiện nay của nhiều người, nhiều gia đình là có nhà  sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học nước ngoài… Đi đâu cũng nghe  khoe nhà trên cả tỷ bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ,  dược sĩ, kỹ sư… Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên  cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả  chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và“ấm thân”.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục  tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng  và đất nước với ngóc đầu lên được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại  như: John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates,  Steve Jobs…, chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng,  đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người  Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẩn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể  hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì  hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học  được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
(bài do bạn BáTrần giới thiệu)